Tượng đài Lenin tại Nga bị người dân giật đổ. Ảnh: Wikipedia
Chủ nghĩa cộng sản từ khi ra đời
đã ôm ấp một tham vọng lớn lao sẽ là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Được sự
cổ vũ của phong trào giải thực sau Thế chiến 2, trào lưu tư tưởng cộng sản mạnh
mẽ bành trướng trên khắp thế giới, hình thành một thế lực chính trị mang màu sắc
bạo lực núp dưới chiêu bài giải phóng dân tộc.
Nhưng chưa tới 100 năm sau, bất kể
những thành công được ca tụng bởi một hệ thống tuyên truyền tinh xảo, thành trì
cách mạng Liên Xô ồn ào sụp đổ kéo theo một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
anh em trên dải đất Đông Âu. Tất cả quay về con đường mà hơn một lần họ đã từng
đi qua, con đường của chủ nghĩa tư bản phương Tây.
Năm 2017, trong khi ở nước Nga kỷ
niệm Cách mạng tháng 10 diễn ra đơn giản trong nội bộ đảng Cộng sản Nga thì ở
Việt Nam, 3500 đại biểu cộng sản Việt Nam nghiêm trang, lặng lẽ ngồi nghe Tổng
bí thư Nguyễn Phú Trọng lên dây cót: “Cách mạng tháng 10 là một cuộc cách mạng
làm rung chuyển thế giới, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại”. Cho tới
thế kỷ này, vẫn có không ít những nhà lãnh đạo cộng sản ở Việt Nam hiện nay có
vẻ còn đặt niềm tin vô hạn vào cuộc cách mạng ấy và cứ loay hoay bào chữa, than
tiếc cho sự sụp đổ của thành trì cách mạng thế giới.
Mới đây trên Tạp chí Cộng sản,
tác giả Phạm Thắng khi viết về sự thay đổi chế độ chính trị ở Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng có cái nhìn tương tự. Để giải thích và bào chữa
cho sự sụp đổ này, tác giả nêu ra 5 lý do khiến cho sức mạnh của chế độ Liên Xô
và Đông Âu "mềm dần" rồi đi đến chỗ tan rã từ bên trong. Bài báo đã kể
ra 5 lý do ấy như sau:
Ông Nguyễn Phú Trọng đọc bài diễn
văn khai mạc buổi lễ kỷ niệm 100 năm cuộc cách mạng Nga hôm 5-11-2017. Ảnh: Báo
Điện Tử Gia Đình và Xã Hội.
Một là, cần khẳng định rằng, sự
tác động từ bên ngoài là hiện hữu, có chủ đích, bền bỉ, dai dẳng.
Đây là quan điểm thuộc lòng cũ
rích mà các nhà tuyên giáo đảng thường xuyên xử dụng để biện giải cho những thất
bại cay đắng chẳng những của đảng Cộng sản Liên Xô (CSLX) mà còn cho đảng CSVN.
Họ rất giàu tưởng tượng, tạo ra vô số lý do từ kẻ địch nhưng không bao giờ thừa
nhận những sai lầm của một chế độ độc tài vừa cai nghiệt vừa giả dối. Từ đó chế
độ tạo ra những khoảng cách bị đào sâu càng ngày càng xa giữa nhân dân và chính
quyền, cuối cùng biến nhân dân thành kẻ thù của đảng.
Hai là, sự tác động đó được thực
hiện trên cơ sở khoét sâu những hạn chế, yếu kém, bất cập, những mầm mống, nguy
cơ có thể dẫn đến mất đoàn kết, đặc biệt là những yếu kém của cán bộ giữ các vị
trí lãnh đạo,... rồi khuyếch trương những yếu tố bất lợi đó theo một kịch bản,
lộ trình công phu, phát huy tác tối đa.
Với quan điểm này, những sai lầm
trong chính sách nhà cầm quyền cộng sản chỉ là những hạn chế hay yếu kém do
trình độ của cán bộ thừa hành. Một lần nữa, mọi tội lỗi đều được trút lên đầu
các thế lực thù địch bên ngoài lợi dụng khai thác và khoét sâu thêm những khuyết
điểm để làm suy yếu đảng, gây mất lòng tin trong nhân dân.
Ba là, những phương tiện thông
tin đại chúng đã bị xâm nhập nhưng không được phát hiện, ngăn chặn kịp thời.
Điều dễ nhận thấy là trong những
nước mà đảng cộng sản cầm quyền trước đây cũng như bây giờ, các phương tiện
thông tin đại chúng như báo, đài, truyền hình đều nằm trong tay đảng. Sự xâm nhập
nếu có chính là sự xâm nhập từ bên trong mà Việt Nam thường rêu rao là “diễn biến
nội bộ”. Không có tự do báo chí, trong khi tự do tư tưởng được định hướng theo
lời đảng dạy thì thử hỏi báo chí của đảng bị xâm nhập bằng cách nào nếu không
do sự tự giác ngộ?
Bốn là, chiến lược diễn biến hòa
bình, chiến tranh tâm lý, chiến tranh thông tin đã tác động rất lớn đến tư tưởng
được thực hiện lâu dài, tinh vi, có lộ trình, có cách tiếp cận, và có biện pháp
cụ thể.
Đối với các ngòi bút tuyên giáo đảng,
chiến lược diễn biến hòa bình là một trong những lý do cốt yếu nhất làm Liên Xô
sụp đổ. Họ không hề đề cập đến bất cứ một nguyên nhân nội tại nào để cắt nghĩa
tại sao một cường quốc thế giới như thế lại đi đến chỗ tiêu vong.
Năm là, sự sụp đổ của Liên Xô
cũng làm nảy sinh sự thiên lệch, thậm chí cực đoan khi đánh giá, nhìn nhận sự
kiện này.
Đây chính là điều mà nhiều người
cộng sản còn lại không thể hiểu được. Vì chính sự sụp đổ nhanh chóng của Liên
Xô năm 1991 đã đưa ra ánh sáng nhiều sự thật lâu nay bị che giấu để mọi người
có thể đánh giá chính xác một thể chế đã từng lên tới đỉnh cao của sự thống trị
bằng bạo lực. Các cây bút tuyên giáo lại càng không hiểu, nước Nga sau khi tận
dụng, khai thác tất cả các khía cạnh tích cực cũng như tiêu cực của chủ nghĩa cộng
sản, đã mạnh dạn thải hồi nó để quay lại với Tây Phương.
Năm cách phân tích nói trên của
tác giả Phạm Thắng cho thấy sự suy nghĩ và nhìn nhận của cán bộ tuyên giáo
không có gì thay đổi. Họ dễ dàng đổ thừa cho những thế lực thù địch bên ngoài
làm suy yếu và tan rã Liên Xô chứ không phải do những yếu kém từ bên trong của
đảng cầm quyền. Một luận điểm cũng thường thấy cho rằng đây chỉ là sự sụp đổ của
một mô hình, không hề là sự thất bại của xã hội chủ nghĩa. Nhưng họ không cắt
nghĩa nổi vì sao Liên Xô cũng như các nước cộng sản khác khăng khăng áp dụng mô
hình phi xã hội chủ nghĩa một cách lâu dài để gánh lấy thất bại.
Ngày nay các nhà nghiên cứu lịch
sử cho thấy chính hai nguyên nhân nội tại: Thứ nhất cán bộ cũng như người dân
đã mất niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lê vì nó bất lực trong việc mang lại đời sống
tốt đẹp cho dân như hứa hẹn. Nước Nga giàu tài nguyên thiên nhiên không kém quốc
gia nào trên thế giới, người nông dân Nga cần cù nhưng lương thực vẫn thiếu thốn
đến nỗi câu nói ví von “Mỹ trồng lúa mì, Liên Xô thu hoạch” vẫn thường được
nghe thời trước. Đây chính là nguyên nhân thất bại trong đường lối kinh tế chỉ
huy, được cho là quan trọng nhất làm cho chế độ Liên Xô đi từ lung lay đến sụp
đổ mà không cách cứu vãn.
Nguyên nhân thứ hai là các phe
nhóm trong đảng CSLX tranh giành nhau ăn chia các nguồn lợi để nắm giữ quyền lực
đã khiến cho bộ máy cầm quyền bị tê liệt khi xã hội biến động. Trước năm 1953,
xã hội Liên Xô ổn định giả tạo trong bàn tay sắt của Stalin. Sau khi Stalin qua
đời, nội bộ đảng CSLX liên tục diễn ra những cuộc đấu đá, thanh trừng lẫn nhau
trong khi vẫn duy trì cuộc chạy đua vũ trang. Sự bất công trong xã hội Liên Xô
và sự bất lực của đảng cộng sản tới lúc chín muồi tạo nên những ngòi nổ đưa đến
biến động. Nhưng hàng triệu đảng viên cộng sản vẫn khoanh tay thờ ơ, mặc nhiên
để chế độ đi dần đến tan rã. Chính từ thời kỳ Khruschev cầm quyền đã khởi thảo
chương đầu cho sự sụp đổ của Liên Xô mà năm 1991 Gorbachev là người đặt chữ ký
cho chương cuối cùng.
Tình hình này hiện đang xảy ra ở
Việt Nam không khác gì Liên Xô hay Đông Âu trước đây. Chủ nghĩa Mác-Lê mà đảng
cương lấy làm kim chỉ nam ngày nay chỉ còn là một mớ kinh điển lỗi thời dùng để
các lãnh đạo đảng hay các lý thuyết gia trong học viện chính trị Hồ Chí Minh
trích dẫn, phô trương kiến thức triết học thâm sâu của mình.
Trong thực tế, thử hỏi ai trong đảng
hiện tại còn tin vào giáo điều Mác-Lê mà họ đã từng nghiền ngẫm đến mòn ghế nhà
trường? Ngay cả Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã từng thú nhận là “Đến hết
thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”.
Chính lời tuyên bố này giúp cho một số đảng viên cộng sản không còn mơ hồ gì về
chủ nghĩa Mác-Lê, nhanh chóng diễn biến tư tưởng góp phần đẩy lùi nó vào quá khứ.
Đối với các phe nhóm tranh chấp để
thâu tóm quyền lực trong đảng và chính quyền thì mọi người đều thấy rõ là ông
Trọng cương quyết dựng lò để đưa phe ông Dũng vào đốt sạch. Song song với chủ
trương nhất thể hóa và sàng lọc cán bộ, bão tố chính trường rồi lại diễn ra
trong năm 2018 để ấn định ngôi vị tổng bí thư của ông Trọng. Chính những hệ quả
này đang làm tan tác chế độ giữa lúc nền kinh tế rơi tự do vào vực thẳm nợ nần.
Đừng mang những tác động của “thế
lực thù địch” bên ngoài làm con ngáo ộp lừa bịp nhân dân và chạy tội cho mình.
Với những biện giải cuối mùa, Ban Tuyên giáo đã hoàn toàn bế tắc và tê liệt mọi
nỗ lực thanh minh thanh nga cho đảng CSVN hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét