Ông Đỗ Mười là người đầu tiên đưa ra khái niệm “nhà nước pháp quyền” vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Điều này “rập khuôn” TQ khi nước này đề xướng “quốc gia pháp trị xã hội chủ nghĩa”, dựa vào pháp luật để trị nước (ỷ pháp trị quốc).
TQ “dò đá qua sông”, học hỏi kiến thức (khoa học kỹ thuật) Tây phương để “quang phục” đất nước. Dĩ nhiên TQ phải tổ chức lại nhà nước, quản lý nhà nước trên nền tảng “pháp luật” (chớ không bằng pháp lệnh như trước) để được thế giới chấp nhận là thành viên của WTO.
Mô hình nhà nước của TQ, về hình thức lấy hứng từ lý thuyết “pháp trị” của Hàn phi tử thời cổ đại Trung Hoa, vừa mô phỏng theo mô hình “l’Etat de Droit” của các nước Tây phương (Pháp và Đức) và “the Rule of Law” của Anh và Mỹ. Nhưng về bản chất của luật lệ, tức pháp chế, thì vẫn giữ nguyên tính “chuyên chế” của xã hội chủ nghĩa Mác Lê Nin.
Còn “nhà nước pháp quyền” của ông Đỗ Mười, từ “pháp quyền” lấy hứng từ hai câu vè lục bác “Bảy xin Hiến pháp ban hành – Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” tác giả là ông Hồ Chí Minh. Cụm từ “Nhà nước pháp quyền” lấy hứng từ “Etat de Droit” của Pháp và “Rechtsstaat” của Đức. Nhiều ký kết giữa VN và Pháp, VN và Đức về “hỗ trợ pháp lý” còn hiệu lực cho phép ta kết luận như vậy.
Có hai điều đã khiến chủ trương “xây dựng nhà nước pháp quyền” của ông Đỗ Mười áp dụng vào VN thất bại, hai thập niên sau nó đã trở thành một “dị tật” trong việc tổ chức và quản lý nhà nước.
1/ Tính “quyền biến” của pháp luật trong “nhà nước pháp quyền”
Nếu hiểu “nhà nước pháp quyền” theo ý nghĩa của “Rule of Law”: pháp luật là tối thượng. “Người lãnh đạo cũng phải tuân thủ luật pháp và phải cai trị bằng các công cụ pháp luật” và “không một cá nhân nào, dù là chủ tịch nước hay công dân, được đứng trên luật pháp”. Hoặc hiểu theo ý nghĩa “Etat de Droit”: Làm cái gì cũng theo luật lệ mà làm. “Người dân có quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm nhưng người cầm quyền thì chỉ được phép làm những điều luật pháp qui định”. Thì các tính chất này không hề được thấy trong “nhà nước pháp quyền” của VN.
Hiến pháp VN qui định “đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” nhưng lại không có điều luật nào nói về trách nhiệm của đảng trước pháp luật. Hệ quả là, nếu đảng có vi phạm luật lệ, hoặc gây ra những tai hại ghê gớm cho đất nước và dân tộc, sẽ không có điều luật nào chế tài đảng hết cả. Đảng đứng trên và đứng ngoài pháp luật.
Với “ngoại lệ” đảng đứng trên và đứng ngoài pháp luật, “nhà nước pháp quyền” của VN không hề tương ứng với khái niệm “the Rule of Law”.
Hiến pháp cũng qui định đảng viên và các tổ chức của đảng phải hoạt động theo khuôn khổ của pháp luật. Nhưng trên thực tế đảng viên muốn làm gì thì làm. Nếu có gây tổn thất cho đất nước, cho dân tộc, các việc này có lợi cho đảng thì đảng viên không có tội gì cả. Các đảng viên phạm tội tham nhũng, mua quan bán chức, lạm dụng quyền lực… nếu đảng chưa có quyết định thì pháp luật không được đụng tới những người này. “Nhà nước pháp quyền” vì vậy cũng không hề tương đồng với khái niệm “l’Etat de Droit”.
Các nguyên tắc về “quyền” của người dân cũng chưa được đặt ra thành “khái niệm”, chứ đừng nói tới việc ra luật để bảo vệ. Trong khi bản chất “luật pháp” của “Etat de Droit” và “Rule of Law” là bảo vệ quyền và lợi ích của người dân.
“Rule of Law” hoặc “Etat de Droit” là “bất biến”. Trong bất kỳ trường hợp nào nó cũng là “quốc pháp” và có giá trị “tối cao”. Thực tế “nhà nước pháp quyền” của VN nhiều trường hợp “quốc pháp” lại không bằng “đảng pháp”.
Ta nhớ vụ các nữ giáo viên, ai có ngoại hình xinh đẹp thì bị ép đi làm tiếp viên, đi hát Karaoké với lãnh đạo cấp cao. Vụ này xảy ra ở Hà Tĩnh tháng 11 năm 2016. Đây là một hình thức “ma cô”, cưỡng ép tình dục, lý ra người chủ trương phải bị trừng trị trước pháp luật. Nhưng chiếu theo “đảng pháp” thì đó là “nhiệm vụ chính trị” của các nữ giáo viên.
Người dân không biết phải “thượng tôn pháp luật” (Rule of Law) hay phải phục tùng “luật đảng”?
Đây là một tiêu sản nặng nề, nguyên nhân của mọi nguyên nhân khiến cho nhà nước Việt Nam XHCN trở nên thối nát toàn diện. Luật không chi phối được đảng viên. Tệ nạn tham nhũng mua quan bán chức tràn lan ở nhân sự lãnh đạo cấp cao. Hệ quả “thượng bất chánh” đưa tới “hạ tắc loạn”, thể hiện qua sự hỗn loạn vô phương chữa trị trong giao thông ở các thành phố lớn, điển hình Hà Nội. Trong khi xã hội luân thường đạo lý đảo lộn, nạn gian lận, giả dối, bằng cấp giả, ăn cắp, ăn cướp, đĩ điếm, cờ bạc… lan tràn trong mọi ngõ ngách của xã hội. Không có luật, hay luật áp dụng không đúng mức, xã hội trở thành xã hội bán khai, mạnh được yếu thua.
2/ “Nhà nước pháp quyền” thành ra “pháp quyền”
Di sản “nhà nước pháp quyền” của ông Đỗ Mười còn trở thành một “tiêu sản” nặng nề cho nền học thuật nước nhà khi các “học giả” VN tự tiện tách rời “pháp quyền” ra khỏi “nhà nước”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét