Ngay
sau khi chiếm đóng miền Nam ngày 30/4/1975, đảng CSVN thực thi ngay tức
khắc chính sách quân quản và tiếp theo đó, dần dần cho cán bộ dân sự từ
miền Bắc vào để quản lý các cơ sở đã chiếm được. Phạm vi bài viết này
trình bày hai giai đoạn trên trong trường Đại học Sư phạm Sài Gòn.
Phần sự kiện do người viết đã sống trong giai đoạn đó và ghi lại qua
trí nhớ. Do đó, có thể có sai sót; mong các bạn đồng nghiệp giúp điều
chỉnh cho. Một điều chắc chắn là người viết hoàn toàn ghi lại và không
thêm bớt một hình ảnh hay giai thoại nào, đúng với lương tâm là nói lên
Sự Thật, dù có phũ phàng.
1. Những ngày đầu tiên
Về phía Giáo sư: Ngay
từ ngày đầu tiên, ngày 1/5/75, Hà Nội đã thiết lập một hệ thống kiểm
soát mới tại trường bằng cách tạm thời thu dụng một số nhân viên, giáo
sư của trường vì không đủ nhân sự và cũng vì chưa “kiểm soát” được thành
phần ban giảng huấn và nhân viên của trường. Tuy không cần kể tên ra
đây, ngoài GS Khoa trưởng Trần Văn Tấn (mất ngày 1/10/2013 tại Saigon)
nhưng chúng ta cũng nhận diện rõ được là bên Ban Khoa học do GS Lý Công
Cẩn (đã qua đời ngày 20/6/2016 tại Pháp), Phó Khoa trưởng đảm nhiệm, gồm
Ban Toán, Lý, Hóa và Vạn Vật đều có "đại diện" tham gia vào "đạo quân
30/4". Hầu hết đạo quân nầy thuộc thành phần giảng huấn nằm trong ngạch
Giảng nghiệm viên. Tuy nhiên có hai Giảng nghiệm trưởng, một ở ban Lý và
một ban Hóa, và hai Giảng sư ban Hóa và Toán là thành phần nồng cốt bên
Ban Khoa học. Hai Giảng sư nầy được nâng lên làm Tổ trưởng học tập
trong những ngày sau đó.
Còn
Ban Văn Chương do GS Lê Văn (đã qua đời ngày 31/12/2009 tại Nam CA) phụ
trách, cũng có một số Giảng nghiệm viên và hai Giảng sư tham gia vào
"cách mạng", trong đó có một Giảng sư nổi tiếng sau này, được cân nhắc
làm Bí thư riêng cho Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng, rồi Đại sứ tại Liên
Hiệp Quốc, rồi Dân biểu Quốc hội, và nhiều chức vụ khác. Để rồi, sau năm
2011... trở về nhiệm vụ "phó thường dân" (ở Việt Nam) giống như hầu hết
những người kháng chiến cũ gặm nhấm "một mối căm hờn trong cũi sắt"...
vì bị vắt chanh bỏ vỏ! Còn một Giảng sư thứ hai (vừa qua đời cách đây
vài tháng 2017), cố gắng đặt một bản nhạc... mừng "giải phóng" và "bắt"
hầu hết các "học tập viên" của trường phải tập hát để mừng "giải phỏng",
giống như bài hát suy tôn Ngô tổng thống mà ông ta đã "lập sớ dâng
công" năm 1953 khi còn giảng dạy ở Đại học Huế.
Ngoài
ra, còn một số nòng cốt "hạng hai" được giao phó làm Tổ Phó, có nhiệm
vụ canh chừng và theo dõi các tổ viên, từng là đồng nghiệp hoặc "xếp"
của mình chỉ một ngày trước đó.
Về phía sinh viên của trường: Chỉ
nói riêng bên ban Khoa học gồm một Trưởng lớp LH2, một Trưởng ban sinh
viên Khoa học cũng đã tích cực tham gia vào đội quân "cai trị" thành
phần giáo chức, nhân viên, và sinh viên cũ của trường. Cho đến hôm nay,
một Trưởng ban trên được giữ chức vụ Chánh sở Giáo dục tại một miền
duyên hải cạnh Sài Gòn, và một, vượt biên cùng thời với người viết đầu
năm 1983 tại Sungai Busi (Mã Lai). Anh nầy đến gặp người viết, lúc đó
làm Trưởng trại nơi đây, và xin được "bỏ qua" nhưng hành động cũ vì sợ
người viết tố cáo lên Cao ủy LHQ. Trò có thể hại Thầy, chứ Thầy làm sao
nhẫn tâm hại Trò được! Anh nầy hiện đang định cư ở Canada.
Về
thành phần sinh viên của trường đã "chạy vào bưng" một vài năm trước
đó... vì học kém, hay vì theo tiếng gọi của "ma vương" (?) đã trở lại
trường ngày 1/5. Cần phải kể đến Mai Hồng Thu và Ngô Phàn ban Lý Hóa, là
hai thành viên "sắt máu" nhứt trong việc kiểm soát sinh viên và ban
giảng huấn bên ban Khoa học và toàn trường. Chính Ngô Phàn đã chạm mặt
với người viết trước của văn phòng GS Phó Khoa trưởng và hỏi một cách
hách dịch rằng:"Anh có biết ông Cẩn ở đâu không?" sau khi khám phá một
khẩu súng lục nhỏ trong ngăn kéo của ông.
Cũng
cần nói thêm một trường hợp đặc biệt nữa là "sinh viên" Phạm Trúc L.,
học lớp Lý Hóa 1 Ban Đệ nhất cấp (hai năm). Anh sinh viên nầy đích thực
là Thiếu tá cảnh sát đặc biệt và học lớp nầy suốt ba năm liền cho đến
khi bị CS Bắc Việt chiếm đóng. Chính "anh sinh viên đặc biệt" nầy đòi
bắt anh Trưởng lớp LH2 trong đêm Tất niên của trường đầu năm 1975 sau
bản đồng ca "Dậy mà đi" do lớp nầy trình bày. Và thêm một lần nữa, người
viết đã can thiệp và bảo lãnh cho sinh viên trên; vì vậy mà anh ta khỏi
bị bắt. Anh "sinh viên" nầy đã biến mất ngay sau ngày 30/4.
Về thành phần "cách mạng": Hoàn
toàn không thấy bóng dáng một bộ đội hay một cán bộ dân sự nào từ miền
Bắc vào, ngoài vài ba chị nhà quê như chị Năm, chị Bảy vắt khăn rằn trên
cổ... đi tới đi lui chỉ chõ, ra lệnh. Tuy chỉ có thế mà đội quân 30/4
của trường răm rắp tuân theo tuyệt đối. Thật là một phỉ nhổ cho một số
thành phần giảng huấn của trường lúc bấy giờ.
Viết đến đây, bạn đọc sẽ thắc mắc là thành phần nầy hiện giờ ở đâu? Được đãi ngộ như thế nào? Và đang làm gì?
Xin thưa rằng:
-
Một tổ trưởng ban Hóa, sau một thời gian phấn đấu, vỡ mộng và xin qua
Pháp vì có quốc tịch Pháp. Hiện Bà ta đã từng tiếng Việt ở Rennes (Pháp)
và bây giờ đã về hưu.
- Một tổ trưởng ban Toán, hiện đang làm Giám đốc Ban Ngoại ngữ của trường và đã về hưu.
-
Một tổ phó ban Hóa, mặc dù chỉ có Cử nhân mà sau đó vẫn được cân nhắc
làm Trưởng ban Hóa, "quản lý" trên 30 "cán bộ giảng dạy" của trường.
- Phần còn lại của đội quân 30/4 lúc xưa, rồi cũng vượt biên và hiện tại đang sống lây lất ở Pháp, Canada, Úc, và Hoa kỳ…
2. Thời kỳ quân quản
Chỉ
một thời gian ngắn độ một tuần lễ sau đó, hình ảnh các "anh bộ đội" với
quân phục và quân hàm cùng với cái túi vải đeo trên lưng hiện diện khắp
nơi, và chiếm cứ tất cả văn phòng của trường. Thêm vào đó, có độ 10 cán
bộ "giảng dạy" xuất phát từ Đại học Sư phạm Vinh vào và bắt đầu chính
sách quân quản và quản lý trường ốc và nhân sự.
Dẫn
đầu là "đồng chí" Trần Thanh Đạm, một "cháu ngoan Bác Hồ", mà sau này
được cân nhắc lên làm Hiệu trưởng Trường Sư Phạm trong suốt 20 năm sau
đó. Còn các cán bộ giảng dạy và nhân viên các phòng ốc lần lượt được
điền khuyết và bổ túc như các chị Yến, Hội của ban Hóa. Họ là những Phó
tiến sĩ từ Liên Sô (nhưng trình độ chuyên môn cần phải xét lại sau hơn
một năm "trao đổi" trong thời gian người viết đang "còn bị treo giò" ở
Sư Phạm.
Giai
đoạn quân quản kéo dài khoảng nửa năm, cho đến khi thành phần các bộ
giảng dạy và nhân viên từ Bắc vào đông đủ, cũng như sự phân công, chia
chác quyền hành trong các ban bệ chấm dứt. Trong giai đoạn nầy, quân đội
và công an chỉ tập trung vào việc kiểm kê, phân loại thành phần, truy
tìm phản động, và các thành phần có thể tạo ra nguy hiểm cho chế độ.
3. Thời kỳ quản lý ban đầu
Đa
số cán bộ giảng dạy chuyển về trường Sư phạm từ Đại học Sư phạm Vinh,
do đó, thành phần người Thanh-Nghệ-Tỉnh chiếm đa số. Tuy nhiên, cũng có
vài cán bộ gốc miền Nam đi tập kết về. Cũng cần phải nói cho rạch ròi
là, các cán bộ miền Nam tập kết không được nắm giữ một vai trò chính yếu
nào trong các ban học tập, nếu có chỉ là... Phó ban mà thôi, mặc dù
điều kiện bằng cấp đôi khi cao hơn vị Trưởng ban. Điều nầy cũng đã soi
rọi rõ ràng là người miền Nam khó có thể chen chân vào "hệ thống" cộng
sản.
Ban
lãnh đạo của trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn (xin lỗi tôi không thể nào
viết được chữ Tp HCM ở đây được) bây giờ là: Hiệu trưởng Trần Thanh Đạm,
hai Hiệu phó là Nguyễn Văn Châu và Cao Minh Thì, Tổ chức cán bộ, Nguyễn
Được (bên công an, tên Được có thể tôi nhớ sai, xin các bạn chỉ giáo).
Tiếp theo đó là hệ thống quản lý nhân viên hành chánh và đông đảo nhứt
là Ban phân phối nhu yếu phẩm…
Sau
khi nắm vững lý lịch các giáo sư của "chế độ cũ" do tự khai báo hay do
"điềm chỉ viên" của đội quân 30/4, Ban giám hiệu bắt đầu cho niêm yết
danh sách cán bộ giảng dạy "lưu dung" (xin thưa đây là "lưu dung" chứ
không phải "lưu dụng", nghĩa là đảng và nhà nước CS "dung thứ" cho giảng
dạy lại chứ không phải được giảng dạy lại vì chuyên môn hay đã là giao
chức cũ!)
Đó là vào giữa năm 1976.
Trong
danh sách niêm yết, hầu hết nhân sự cũ đều được lưu (dung lại)…có lẽ
(nói có lẽ cho lịch sự, thật ra Ban Giam hiệu và Ban Giảng huấn của CS
chưa đủ trình độ chuyên môn để giảng dạy vì người viết đã quan sát suốt
một “năm trời ngồi không xơi nước” cũng như được một số đồng nghiệp trẻ
“phản động” và học trò cũ... kể lại!) vì Ban Giám hiệu mới không đủ nhân
sự chuyên môn cũng như chưa nắm rõ lề lối giảng dạy trong Nam. Giáo sư
Trần Văn Tấn, Quyền Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn, Khoa trưởng Sư
Phạm và GS Nguyễn Văn Trường, chấp chánh hai lần Bộ trưởng Giáo dục của
VNCH (nếu kể luôn chánh phủ cuối cùng, ông đã đảm nhiệm chức vụ nầy lần
thứ ba) vẫn được giữ lại và dạy cho ban Toán. GS Lý Công Cẩn, một hung
thần đối với các sinh viên thân Cộng cũng được phân công phụ trách phòng
thí nghiệm Vật lý.
4. Số phận người viết
Riêng
người viết bài này, chỉ giữ chức vụ Trưởng ban Hóa chưa đầy 2 năm của
trường, không có tên được "lưu dung" trong danh sách (may mắn và hãnh
diện thay!). Và lý do đã được chính Trần Thanh Đạm giải thích như
sau:"Vì lý do cách mạng, chúng tôi tạm ngưng công tác giảng dạy của anh
trong thời kỳ quá độ nầy". Điều nầy sau đó, qua sự "rò rỉ" của đám 30/4,
được biết lý do rõ ràng là tôi đã nhiều lần hướng dẫn sinh viên tham dự
thể thao cấp toàn quốc dành cho sinh viên, hội họp sinh viên Đại học tư
lập ờ An Giang, Hòa Hảo, sinh hoạt phối hợp sinh viên Sư phạm và Cao
Đài, cùng ủy lạo học sinh bị Việt Cộng pháo kích ở Cao Lậy và Tân Phú.
Tại
trường, văn phòng tôi luôn rộng mở và tiếp sinh viên bất cứ giờ phút
nào. Vì vậy, theo báo cáo ngầm... là tôi có tính "quần chúng". Và tính
quần chúng chỉ dành độc quyền cho cán bộ của đảng CS mà thôi. Do đó, tôi
cần phải bị triệt hạ. Ngày hôm nay, còn sống để viết lên những điều
nầy, quả thật là một may mắn lớn, vì chuyên chính vô sản không thể từ
chối một hành động sắt máu nào để tẩy trừ tôi trong trường hợp tranh tối
tranh sáng của giai đoạn "tiền thời kỳ quá độ" trên.
5. Đi vào "nề nếp"
Thời điểm cuối năm 1976.
Sau
khi ổn định việc kiểm soát giáo chức và nhân viên của “chế độ cũ” của
Trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn - như cách phân chia và hoán chuyển vào
các ban bệ cho giáo chức và nhân viên “lưu dung” - việc phân loại dựa
theo “tinh thần cách mạng” và quan điểm chính trị của từng cá nhân đã
được công an, dưới hình thức Ban Tổ chức của trường cân nhắc kỹ lưỡng.
Về
phía sinh viên, việc thanh lọc còn được siết chặt hơn nữa. Thành phần
có liên quan đến cách mạng được chiếu cố nhiều nhứt, và được xem là lực
lượng nồng cốt để “quản lý” và kiểm soát sinh viên. Đa số trong thành
phần nầy đều được kết nạp vào cảm tình viên hay đoàn viên của Thành đoàn
Thanh niên CS. Những sinh viên cố gắng phấn đấu thì sẽ được xếp vào
tiêu chuẩn đoàn viên dự khuyết. Thành phần sinh viên thứ ba chiếm đa số
là con cái của người dân thường, không có thành tích cách mạng cũng
không nằm trong “gia đình có nợ máu với nhân dân”.
Tệ
hại hơn cả, các sinh viên có gia đình nằm trong danh sách “ngụy quân
ngụy quyền” được “chiếu cố ” đặc biệt. Chiếu cố qua Ban Tổ chức của
trường, mà còn được chiếu cố thêm mấy tầng áp bức nữa do đám sinh viên
phấn đấu và cao điểm nhứt là sự chiếu cố của đám “đoàn viên”. Vì vậy,
bất kỳ một câu nói nào, một cử chỉ nào hay một hành động nào của một
sinh viên... được xem là phản động, đều được báo cáo lên lớp qua lớp
trưởng (là đoàn viên chính thức) và qua sự phấn đấu theo dõi của các
sinh viên “chuẩn” đoàn viên. Nếu mức độ “phản động” được đánh giá trầm
trọng, sự việc có thể lên đến Ban Tổ chức và Thành đoàn Thanh niên CS...
và sinh viên bị nghi là phản động có thể bị đuổi học hay bị bắt vào tù.
Quả
thật đây là một lối áp dụng chuyên chính vô sản một cách triệt để trong
hệ thống giáo dục của CS, mặc dù nơi trường ốc hoàn toàn không có gì có
thể gây ra nguy hiểm cho an ninh quốc phòng hay lật đổ chế độ...
6. Cuộc thi tuyển đầu tiên dưới chế độ mới
Vì
đây là một cuộc thi tuyển đầu tiên, một thách thức quan trọng cho chế
độ mới, do đó Ban lãnh đạo trường đã mất nhiều tháng trường để chuẩn bị
cho cuộc thi. Dĩ nhiên thành phần cốt cán của Ban tổ chức vẫn là cán bộ
của trường xuất thân từ miền Bắc. “Đội quân 30 tháng 4”, ngay cả cán bộ
tập kết cũ cũng chỉ giữ vai trò phụ hợ mà thôi.
Ban chuẩn bị đề thi: Có
lẽ vì không có đủ khả năng để chuẩn bị đề bài thi, do đó, các giáo sư
trước 1975 được trưng dụng để cho ra đề, trong đó có tôi. Có một điều,
vì biết chắc rằng đề thi của mình sẽ không bao giờ được chọn lựa... vì
lý lịch phản động của tôi (?) cho nên, tôi chỉ làm cho có lệ mà thôi. Và
đề thi Hóa được GS Nguyễn Thị Phương (là Phó Ban Hóa trước 1975), một
Tổ trưởng của binh đoàn 30/4, lúc nào cũng mặc áo bà ba và mang khăn rằn
khi đến trường làm việc, đã được chọn đúng như đã tiên đoán.
Đây
là một cuộc thi tuyển áp dụng cho cả hai hệ thống học sinh trung học ở
miền Nam và miền Bắc. Miền Nam với hệ thống 12 năm và miền Bắc, 10 năm.
Không cần phải kiểm chứng, chúng ta cũng đủ biết là khả năng của học
sinh miền Bắc không thể nào tranh đua so với học sinh miền Nam được. Do
đó, để thâu ngắn khoảng cách biệt về trình độ trên, học sinh miền Bắc
được những điểm ưu tiên cộng thêm vào với điểm của bài làm. Ngoài ra,
con cái gia đình liệt sĩ và cán bộ sẽ có thêm điểm ưu tiên ngoại hạng
khác nữa. Và cũng cần kể thêm là còn có những điểm ngoại lệ nữa do...
nạn móc ngoặc, gửi gấm, và tệ trạng hối lộ...
Giai đoạn thu đơn dự thi: Vì
không quen cung cách thâu nhận đơn cho nên trong giai đoạn nầy, nhân
viên ban giảng huấn cũ được tận dụng tối đa. Cũng cần ghi nhận là trong
thành phần sinh viên "ngụy" có ca sĩ Thanh Lan và người em làm đơn xin
dự thi vào Ban Pháp văn, và hai chị em con của ĐT Lý Bá Phẩm xin thi vào
Ban Lý hóa. Nhưng cho đến ngày thi, chúng tôi không thấy mặt các thí
sinh kể trên.
Giai đoạn thi tuyển: Rồi
ngày N đã đến. Địa điểm thi gồm các trường Sư Phạm và Quốc gia Sư Phạm,
cùng trường tiểu học Chợ Quán ở đường Trần Hưng Đạo cũng được trưng
dụng cho thí sinh dự thi Ban Khoa học. Và Đại học Vạn Hạnh cũ, đã được
sáp nhập vào Đại học Sư phạm ngay sau 30/4, được dùng cho thí sinh Ban
Nhân văn và Sinh ngữ.
Nói
riêng về đề thi Hóa do TS Nguyễn Thị Phương biên soạn. Vào sáng ngày
thứ hai của cuộc thi tuyển, đề thi Hóa học được bốc ra. Trong thời gian
nầy tôi được cử làm Giám thị ở trường Chợ Quán. Vừa liếc xong đề thi,
tôi thấy có gì không ổn trong các câu hỏi của bài toán vì giả thiết của
bài không cung cấp đủ dữ kiện để truy tìm giải đáp cho câu hỏi; do đó
cần phải có thêm giả thiết tùy theo điều kiện 1, hoặc 2... Vì vậy sẽ có
nhiều đáp số cho một câu hỏi. Việc đầu tiên tôi làm sau đó là “báo cáo”
lên Ban Tổ chức cuộc thi, GS Nguyễn Văn Châu, Phó Ban Tuyển sinh. Sau
hơn một giờ đồng hồ trao đổi với nhau, Ban Lãnh đạo cuộc thi quyết định
xóa bỏ câu hỏi trên. Và cuộc thi vẫn tiếp tục sau đó.
Sau
vài ngày tiếp theo, tôi khám phá ra đề thi mà GS TS Phương biên soạn là
một phần của bài toán trong cuốn sách Vật lý lớp Terminale của George
Ève. Vì bài toán quá dài, mà GS Phương chỉ trích một vài câu hỏi ngắn
cho nên GS không cung cấp đủ giả thiết làm cho câu hỏi thành ra “mù mờ”
đi. Đây, thể hiện một hành động vừa thiếu khả năng, vừa bị mặc cảm cho
nên không dám trao đổi với người có khả năng để giúp điều chỉnh và hoàn
tất đề thi. Đó là Ông Cựu Trưởng ban Hóa, xếp trực tiếp cũ của GS
Phương.
Ban chấm thi: Sau
khi thi xong, cần phải chấm thi. Thành phần ban chấm thi cũng gồm các
giáo sư Sư phạm cũ. Tuy nhiên bài giải cũng như thang tiêu chuẩn chấm
điểm đều được chỉ định do Ban Lãnh đạo. Tất cả cho thấy, tính triệt để
cách mạng và chuyên chính vô sản luôn được người CS đề cao cảnh giác và
áp dụng trong bất cứ trường hợp nào.
Tôi
cũng “được” phân công chấm thi bài Hóa học. Nhìn vào các bài giải của
thi sinh, tôi phân biệt được ngay bài thi nào là của thí sinh miền Bắc
và miền Nam. Sự khác biệt căn bản đập vào mắt người chấm thi là chữ biết
“không đẹp đẽ” (nếu không nói là nguệch ngoạc) và cấu trúc câu văn đặc
sệt (hay đặc thù, hay một khuôn đúc) của thí sinh miền Bắc. Có thể nói
mà không bị lầm lẫn là, cách hành văn của thí sinh miền Bắc tương đối
rất giống nhau và do đó, những lỗi phạm phải cũng giống nhau. Đó là do
thí sinh miền Bắc cùng chịu sự “chỉ đạo” của một hệ thống giáo dục từ
chương và một chiều, làm sao có được tinh thần độc lập và khai phóng như
thí sinh ở miền Nam.
Một
thí dụ cụ thể để chứng minh các nhận định trên là, trong một câu hỏi
Hóa học, hầu hết nếu không nói là 100% thí sinh miền Bắc đều gọi nhà hóa
học Mendeleef là “sinh viên” đã thiết lập ra Bảng Phân loại Tuần hoàn.
Xin thưa, ông Mendeleef sinh năm 1834, và khi viết ra Bảng Phân loại
Tuần hoàn đầu tiên với 60 nguyên tố (ngày nay, các nhà khoa học đã tìm
ra trên 110 nguyên tố) năm 1869, khi đó, ông đã là một nhà hóa học nổi
tiếng có tầm vóc thế giới. Nói ông là sinh viên để chỉ tính siêu việt
của người cộng sản chăng? Điều nầy, thêm một lần nữa chứng tỏ tinh thần
lệ thuộc hay nô lệ vào “đàn anh Sô Viết” vĩ đại. Ngày nay (2017), một
giả thuyết có thể được nêu ra là, nếu câu hỏi về Hóa học trên được đặt
ra, có lẽ thí sinh xã hội chủ nghĩa năm 2011 sẽ trả lời ông tổ của Bảng
Phân loại Tuần hoàn là Mao Trạch Đông hay Hồ Cẩm Đào, vì "đảng ta" đang
đi vào vòng ảnh hưởng và lệ thuộc của "16 chữ vàng" rực rỡ!
Kết quả cuộc thi: Đây
là một giai đoạn cam go nhứt của cuộc thi. Dĩ nhiên là những thành phần
“ngụy” như chúng tôi đều không được tham dự vào kết quả của “trò chơi
tuyển sinh” nầy. Đây cũng là một “bí mật quốc gia”, chỉ có Ban Lãnh đạo
cuộc thi biết và quyết định mà thôi. Điểm cho thêm vì là con cháu cách
mạng hay liệt sĩ, điểm trừ bớt vì là con cháu “ngụy” đã được cân nhắc kỹ
lưỡng trước khi niêm yết kết qua cuộc thi tuyển.
Nhưng
ngay sau khi niêm yết kết quả xong, câu chuyện “tuyển sinh” vẫn chưa
được kết thúc tại đây vì sau đó, vẫn còn những thêm thắt vào danh sách
trúng tuyển bằng chữ viết tay... do yêu cầu (hay ra lệnh) của một số
“anh Nhớn”.
7. Đôi lời nhắn gửi
Giáo dục là một yếu tố quan trọng nhứt quyết định cho tương lai của một dân tộc.
Bốn
mươi hai năm qua, đường lối và chính sách giáo dục của CSVN vẫn không
thay đổi. Vì vậy, kết qua tất nhiên là ngày hôm nay, sự xuống dốc và đi
thụt lùi của giáo dục Việt Nam so với các quốc gia láng giềng là điều
không tránh khỏi. Phẩm chất giáo dục hầu như biến mất, đạo lý và văn hóa
truyền thống của dân tộc bị băng hoại. Có thể nói, con người mới xã hội
chủ nghĩa ngày hôm nay có thể được xem như là một quái thai trong xã
hội, trong đó mọi tệ nạn tệ hại nhất có thể xảy ra bất cứ lúc nào và bất
cứ nơi đâu.
Chính sách giáo dục của miền Nam trước năm 1975 gồm: Dân Tộc, Nhân Bản, Khai Phóng và Khoa Học.
Chính sách giáo dục, tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng đã đào tạo một tầng lớp
công dân có kỷ cương, có đạo lý và đạo đức, tạo dựng một xã hội tương
đối ổn định cùng đồng tâm hiệp lực tham gia và đóng góp vào việc phát
triển quốc gia chung.
Ngược lại, giáo dục xã hội chủ nghĩa ngày hôm nay đã mang lại được gì cho Đất Nước?
Về mặt Dân Tộc,
chỉ là một hình thức dân tộc nằm trong tiêu chuẩn của Dân tộc Đàn Anh
Nước Lớn, chấp nhận làm nô lệ và tuân thủ mọi quyết định lên vận mạng
nước non của dòng Hán tộc.
Tinh thần Quốc gia Tự quyết không còn nằm trong não trạng của những người điều hành đất nước hiện tại.
Về mặt Khai Phóng,
giáo dục hiện tại ở Việt Nam đã biến mọi tầng lớp chuẩn bị cho thế hệ
tương lai thành những con cừu Panurge... đi theo “bảng chỉ đường” theo
lề phải của một đảng đang trên đường tự đào thải.
Về mặt Nhân Bản,
chúng ta thấy rõ ràng là tình người hầu như biến mất ở xã hội Việt Nam
hiện tại. Tất cả đều chạy theo mãnh lực của đồng tiền đánh mất mọi giá
trị đạo đức căn bản và cần thiết của con người trong thế giới văn minh.
Và về mặt khoa học,
với dân số gần 96 triệu dân mà các ấn bản khoa học (publications) có uy
tín trên thế giới không bằng 1/100 của Thái Lan và 1/500 của Nhật Bản
tuy CSVN hiện tại có hơn 30.000 tiến sĩ… đủ loại!
Vì
vậy, mỗi người trong chúng ta, nếu còn nhận là một người con Việt, dù ở
quốc nội hay hải ngoại đều có cùng chung trách nhiệm trước nỗi can qua
của Đất Nước ngày hôm nay.
Đã
có cùng một trách nhiệm, chúng ta cần phải có cùng một bổn phận là cùng
nhau thúc đẩy tiến trình tự do và dân chủ cho Việt Nam.
Bằng cách nào?
Đó là câu hỏi mà mỗi người trong chúng ta cần phải động não để tìm một giải đáp!
8. Thay lời kết
Qua
các sự kiện và phân tích vừa nêu trên và nếu đem so sánh với hiện tình
Đất Nước ngày hôm nay, quả thật chúng ta có thể kết luận ngắn gọn rằng
chính sách cai trị và quản lý giáo dục của CSVN có tính xuyên suốt từ
ngày đầu tiên 1/5/1975 cho đến ngày 2/9/2017 nầy. "Tính xuyên suốt" đó
gồm cơ chế "chuyên chính vô sản" và "ba dòng thác cách mạng". Và trong
suốt 42 năm qua, chính sách và thành quả của việc xây dựng xã hội chủ
nghĩa vẫn là "Vũ Nhu Cẩn" (*) giống như vừa mới xảy ra trong năm 1975,
1976…
Với
kinh nghiệm trong quá khứ, sau hơn một năm "học tập tại chỗ" áp dụng
cho giáo chức đại học ngay từ đầu, cá nhân tôi, khi viết những dòng chữ
nầy cũng vẫn không thể nào chiêm nghiệm được… giai đoạn "quá độ" tiến
lên chủ nghĩa xã hội hiện nay đang ở giai đoạn nào của ba dòng thác cách
mạng?
Mà
nếu có cắc cớ hỏi 17 ủy viên Bộ chính trị của đảng CSVN, tôi tin chắc
và khẳng quyết rằng chẳng có ông bà (?) nào có khả năng giải thích được
"khâu" nầy.
Tuy
nhiên, riêng về chuyên chính vô sản, chắc chắn tôi đã thuộc lòng và
hiểu được là chính sách nầy đã, đang, và sẽ được đảng CSVN áp dụng triệt
cho đến ngày cáo chung của đảng mà thôi!
Đó là: Giết! Giết! Giết!
Đó là: Thà Giết Lầm Hơn Tha Lầm!
Ngay ngày đầu tiên khi tiếp thu Hà Nội, trước quảng trường Ba Đình ngày 3/9/1945, Hồ Chí Minh đã công bố: "Từ giờ phút nầy, các em đón nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam, một nền giáo dục của một nước độc lập." Thế
mà, 72 năm qua, trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa, giáo dục hiện
tại mang lại cho Việt Nam một xã hội hoàn toàn bị băng hoại, trong đó,
Thầy hiếp trò, Cô ngủ với nam sinh… qua những cuộc buôn bán bằng điểm
thi, bằng bằng cấp… Học sinh lớp 7, 8, hay 9… vẫn có đủ khả năng và điềm
tỉnh để… giết người, hãm hiếp hay cướp của!
Trẻ
em lớp một, trước khi vào trường phải qua một màn thi tuyển, đóng lệ
phí nhập học và hàng tháng cho trường và quà cáp hối lộ!
Những
điều trên, lại "hoàn toàn" đi ngược với những Điều lệ ghi trong Hiến
pháp CSVN là giáo dục cưỡng bách và hoàn toàn miễn phí!
Một
công thần của chế độ trong giai đoạn quân quản, tướng CS Trần Văn Trà,
sau khi bị "vắt chanh bỏ vỏ" đã viết một cuốn sách tựa đề "Kết thúc cuộc chiến 30 năm" chê
Trung ương "thiếu hiểu biết thực tế sau khi chiếm miền Nam". Cuốn sách
đã bị cấm xuất bản. Sau đó, năm 1982, Ông và Nguyễn Hộ cùng đứng ra
thành lập Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ… Nhưng Câu lạc bộ nầy đã
bị giải tán năm 1989. Tuy nhiên, Câu lạc bộ vẫn còn hoạt động bí mật
cho đến hôm nay (2017) và "nghe đâu" trụ sở đã di chuyển về Long Xuyên,
quy tụ thêm nhiều "cựu" kháng chiến cũ khác nữa cùng nhiều thành phần
trẻ trong và ngoài nước, trong sạch và còn ưu tư với vận mệnh của đất
nước.
Hy
vọng những đóm lửa… tàn hơi trên có thể góp phần cùng nhân dân khơi
động được làn gió cách mạng Tunisia, Egypt, Libya… và thổi về những cánh
sen Đồng Tháp Mười, rải rác trên 700 ngàn mẫu đất, sớt chia sáu tỉnh
miền Nam, trung tâm của công cuộc kháng chiến vào những năm 1945.
Và cuốc cách mạng ngày hôm nay, phải chăng là một cuộc cách mạng Hoa Sen, cách mạng Bất Tuân Dân Sự.
Mong lắm thay!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét