Năm 2017 là một năm có nhiều sự kiện quan trọng đối với quan
hệ Việt Mỹ. Hồi tháng 5, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trở thành nhà lãnh đạo Đông
Nam Á đầu tiên tới thăm Nhà Trắng dưới thời Tổng thống Trump. Sáu tháng sau,
vào ngày 11-12/11, Tổng thống Trump đã tiến hành chuyến thăm cấp nhà nước tới
Việt Nam sau khi tham dự Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC tại Đà Nẵng. Kể
từ sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ năm 1995, tất cả các Tổng
thống Hoa Kỳ đều đã thăm Việt Nam trong nhiệm kỳ của mình nhưng ông Trump là
người đầu tiên làm việc này trong năm đầu tiên sau khi lên nắm quyền. Việt Nam
cũng là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên mà ông Trump viếng thăm kể từ khi nhậm chức.
Điều này càng có ý nghĩa hơn nếu xét việc Tổng thống Barack Obama đã thăm Hà Nội
hồi tháng 5/2016, đưa Việt Nam trở thành quốc gia Đông Nam Á duy nhất kể từ sau
Chiến tranh Lạnh đón tiếp hai tổng thống Mỹ đương nhiệm đến thăm trong 2 năm
liên tiếp.
Bài viết này phân tích tầm quan trọng của chuyến thăm bằng
cách xem xét các phản ứng của các quan chức và công chúng Việt Nam đối với chuyến
thăm, các kết quả quan trọng nhất cũng như tác động của nó đối với quan hệ Việt
Mỹ và bối cảnh chiến lược khu vực.
Các phản ứng đối với chuyến thăm
Trái với các quan điểm tương đối tiêu cực về chính quyền
Trump tại Hoa Kỳ và các nước khác, người dân Việt Nam nhìn chung có quan điểm rất
tích cực đối với ông Trump. Theo một cuộc khảo sát được tiến hành bởi Trung tâm
Nghiên cứu Pew, trong khi tỷ lệ đánh giá tích cực đối với Hoa Kỳ sau khi ông
Trump lên nắm quyền đã giảm mạnh ở hầu hết các nước được khảo sát thì Việt Nam
lại là một trong sáu quốc gia nơi nhận thức về hình ảnh Hoa Kỳ đã được cải thiện,
tăng từ 78% năm 2015 lên 84% năm 2017. Có tới 72% số người Việt Nam được khảo
sát coi ông Trump là một lãnh đạo mạnh trong khi 71% tin rằng ông xứng đáng làm
Tổng thống Hoa Kỳ. Các tỷ lệ này đều đáng chú ý nêu xét tỷ lệ trung bình toàn cầu
lần lượt là 55% và 26% (Pew Research Center, 2017; Storey, 2017).
Các hoạt động của Tổng thống Trump ở cả Đà Nẵng và Hà Nội đều
được thảo luận tích cực trên Facebook. Đặc biệt, việc ông nhắc tới cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng chống lại nhà Nam Hán như là một ví dụ của tinh thần yêu nước
của người Việt Nam trong bài diễn văn tại Hội nghị Thượng đỉnh CEO nhận được phản
ứng tích cực từ cộng đồng mạng Việt Nam. Người dân cũng xếp hàng dọc theo hành
trình của ông từ Sân bay Nội Bài tới Khách sạn Metropole để có thể tận mắt nhìn
thấy vị tỷ phú trở thành tổng thống. Họ đồng thời hô vang “Welcome to Vietnam”
để chào đón ông Trump và đoàn tùy tùng của ông.
Các phương tiện truyền thông đưa tin sâu rộng về chuyến thăm
và chuyến bay đáp xuống Nội Bài của ông Trump được truyền hình trực tiếp trên một
số kênh tin tức. Tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã
cho đăng một bài xã luận ca ngợi chuyến thăm như là một “bước phát triển mới
trong quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ”. Bài viết cho rằng:
Đón tiếp tổng thống D. Trump, Việt Nam khẳng định nhất quán
coi trọng phát triển quan hệ với Hoa Kỳ, hợp tác với chính quyền Tổng thống D.
Trump phát huy các kết quả hợp tác và tiếp tục thúc đẩy quan hệ song phương. Sự
kiện quan trọng này một lần nữa khẳng định đường lối đối ngoại của Việt Nam là
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế (Nhan Dan, 2017).
Các học giả và quan chức Việt Nam cũng có đánh giá tích cực
về chuyến thăm cũng như tầm quan trọng của nó đối với quan hệ Việt – Mỹ. Ví dụ,
TS. Cù Chí Lợi, Giám đốc Viện Nghiên cứu châu Mỹ tin rằng chuyến thăm là “một sự
kiện đặc biệt, là dấu ấn quan trọng trong quan hệ Việt – Mỹ”, thể hiện “mối
quan tâm đặc biệt” và mong muốn thúc đẩy quan hệ ngoại giao giữa hai nước của
Hoa Kỳ (Dan Tri, 2017). Trong khi đó, TS Trần Việt Thái, Phó Giám đốc Viện
nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao thuộc Học viện Ngoại giao nhấn mạnh rằng
ông Trump đã thăm Việt Nam ngay trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống và
cho rằng chuyến thăm là một sự kiện đặc biệt đối với cả Việt Nam lẫn khu vực,
thể hiện góc nhìn mới của Mỹ đối với vai trò của Việt Nam trong quan hệ song
phương cũng như các vấn đề khu vực và toàn cầu (BBC Vietnamese, 2017). Cựu Thứ
trưởng Ngoại giao và Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Lê Văn Bàng cũng nhấn mạnh tầm
quan trọng của chuyến thăm đối với Việt Nam và khu vực. Nhà cựu ngoại giao tin
rằng chuyến thăm phản ánh nỗ lực lớn của Hoa Kỳ và là một biểu hiện cho thấy Tổng
thống Trump đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong chính sách đối ngoại Mỹ
(Zing News, 2017).
Các kết quả chính của chuyến thăm
Hai bên đã đưa ra một bản tuyên bố chung tổng kết các kết quả
chính của chuyến thăm. Bản tuyên bố chung đề cập tới một loạt các chủ đề hợp
tác song phương từ kinh tế, quan hệ chiến lược tới giải quyết các vấn đề di sản
chiến tranh, quan hệ nhân dân, giáo dục, và quản lý nguồn nước ở Hạ lưu sông Mê
Kông. Tuy nhiên, các kết quả đáng chú ý nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chiến
lược.
Cụ thể hai bên đã cam kết sẽ làm sâu sắc hơn và mở rộng quan
hệ thương mại và đầu tư thông qua các cơ chế chính thức bao gồm Hiệp định Khung
về Thương mại và Đầu tư (TIFA) ký năm 2007. Điều này cho thấy hai bên, đặc biệt
là phía chính quyền Trump, vẫn chưa quan tâm hay sẵn sàng đàm phán một Hiệp định
Thương mại Tự do song phương sau khi Trump rút nước Mỹ ra khỏi Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Trong chuyến thăm, các doanh nghiệp hai bên đã ký các thỏa
thuận thương mại trị giá 12 tỷ đô la Mỹ, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực
phát triển dầu khí, mua bán ôtô, động cơ máy bay và hỗ trợ kỹ thuật đi kèm. Hồi
tháng 5, trong chuyến thăm của Thủ tướng Phúc tới Washington, hai bên cũng đã
ký 13 thỏa thuận thương mại trị giá 8 tỷ đô la Mỹ. Ông Trump từng cáo buộc Việt
Nam “đánh cắp” việc làm của người Mỹ và tại một cuộc gặp với Thủ tướng Phúc
trong chuyến thăm lần này, ông cũng đã phàn nàn về khoản thâm hụt thương mại
lên tới 32 tỷ đô la của Hoa Kỳ với Việt Nam. Các thỏa thuận này, vốn có thể
giúp tạo thêm công ăn việc làm cho công nhân Mỹ và giảm thâm hụt thương mại của
Mỹ với Việt Nam, có thể được xem như những thắng lợi ngoại giao kinh tế của ông
Trump và giúp ông nâng cao vị thế chính trị ở trong nước. Đây cũng là một biện
pháp giúp Việt Nam giành được sự ủng hộ của ông Trump đối với quan hệ song
phương.
Về hợp tác chiến lược, bản tuyên bố chung đề cao việc Mỹ
chuyển giao một tàu tuần tra lớp Hamilton từ Tuần Duyên Hoa Kỳ cho Việt Nam và
kế hoạch tổ chức chuyến thăm lần đầu tiên của một tàu sân bay Hoa Kỳ tới một cảng
Việt Nam vào năm 2018. Hai nước đã thông qua Kế hoạch Hành động về Hợp tác Quốc
phòng Việt Nam – Hoa Kỳ Giai đoạn 2015-2020 nhằm thực hiện Bản ghi nhớ năm 2011
về Phát triển Hợp tác Quốc phòng Song phương và Tuyên bố Tầm nhìn Chung về Quan
hệ Quốc phòng năm 2015. Cũng quan trọng không kém chính là kế hoạch của hai bên
nhằm làm sâu sắc hơn và từng bước mở rộng hợp tác tình báo và an ninh, nâng cao
việc chia sẻ thông tin và huấn luyện chung. Những hoạt động hợp tác này sẽ giúp
quan hệ quốc phòng giữa hai cựu thù thêm thực chất.
Kể từ khi Hoa Kỳ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát
thương đối với Việt Nam hồi tháng 5/2016, đã có những đồn đoán cho rằng Việt
Nam quan tâm tới một số trang thiết bị quân sự và vũ khí của Hoa Kỳ. Tuy nhiên,
vẫn chưa có thỏa thuận mua bán vũ khí nào được công bố. Trong chuyến thăm, ông
Trump được cho là đã gợi ý Việt Nam mua các trang thiết bị quân sự, máy bay và
tên lửa từ các nhà sản xuất Hoa Kỳ. Ông Trump nói với thủ tướng Việt Nam Nguyễn
Xuân Phúc rằng “Chúng tôi chế tạo những tên lửa tuyệt vời nhất thế giới, những
máy bay quân sự tuyệt vời nhất thế giới, những máy bay thương mại tuyệt vời nhất
thế giới. Vì vậy chúng tôi muốn Việt Nam mua từ chúng tôi và chúng ta phải xóa
bỏ tình trạng thâm hụt thương mại. Chúng ta không thể duy trì tình trạng thâm hụt
thương mại” (AFP, 2017). Cách ông Trump gắn hay vấn đề mua bán vũ khí với thâm
hụt thương mại có thể hàm ý rằng nếu Việt Nam đồng ý mua vũ khí từ Hoa Kỳ thì
ông Trump có thể bằng cách nào đó tìm cách giảm nhẹ vấn đề thâm hụt thương mại.
Thực tế, việc bán vũ khí cho Hà Nội dường như là một mục
tiêu quan trọng đối với Hoa Kỳ trong quan hệ với Việt Nam vì các thương vụ như
vậy có thể phục vụ cùng lúc nhiều mục đích. Các thương vụ này sẽ tạo thêm nhiều
việc làm và doanh thu xuất khẩu cho Hoa Kỳ, phù hợp với sứ mệnh “Làm cho nước Mỹ
vĩ đại trở lại” của Trump. Các thương vụ này cũng sẽ củng cố năng lực quốc
phòng của Việt Nam, phù hợp với lợi ích chiến lược của Mỹ ở Châu Á, đặc biệt là
việc duy trì cán cân quyền lực và trật tự khu vực trong bối cảnh Trung Quốc
đang trỗi dậy. Về phần mình, Việt Nam cũng đang tìm cách giảm bớt sự phụ thuộc
vào vũ khí nhập khẩu từ Nga và mua vũ khí từ Hoa Kỳ có thể là một lựa chọn hấp
dẫn nếu xét tới tiềm năng giúp củng cố hơn nữa quan hệ chiến lược Việt – Mỹ.
Hà Nội dường như đã có một số bước đi hướng tới mục đích
này. Trước khi ông Trump thăm Việt Nam, công ty VTA Telecom Corporation, một
công ty con của Tập đoàn Viettel, được cho là đã trả một hãng luật một khoản 40
nghìn đô la Mỹ mỗi tháng nhằm vận động hành lang các nhà làm luật và quan chức
chính phủ Hoa Kỳ về các vấn đề liên quan tới an ninh quốc gia và quốc phòng của
Việt Nam, đồng thời tận dụng việc Hoa Kỳ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí
sát thương để đẩy mạnh thương mại quốc phòng giữa hai nước (VOA Vietnamese,
2017). Sự hiện diện tại Hoa Kỳ của Viettel, công ty được chính phủ Việt Nam
giao dẫn dắt việc phát triển ngành công nghiệp quốc phòng, có thể liên quan tới
tuyên bố hồi năm 2015 rằng hai nước đang xem xét việc cùng sản xuất các trang
thiết bị quân sự. Nếu các thương vụ vũ khí và đặc biệt là việc sản xuất chung
các trang thiết bị quân sự trở thành hiện thực trong tương lai thì chúng sẽ
giúp chuyển biến một cách thực chất quan hệ quốc phòng Việt – Mỹ và mang các mối
quan hệ này lên một tầm cao mới.
Liên quan tới trật tự khu vực, hai bên hoan nghênh các sáng
kiến nhằm duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác và phát triển ở khu vực Ấn
Độ Dương – Thái Bình Dương, thừa nhận vai trò trung tâm của ASEAN trong khu vực,
cam kết sẽ tôn trọng và hỗ trợ vai trò trung tâm và sự đoàn kết của ASEAN trong
cấu trúc khu vực đang biến đổi, đồng thời cam kết làm sâu sắc hơn quan hệ chiến
lược ASEAN – Hoa Kỳ (The White House, 2017). Mặc dù Việt Nam chưa đưa ra một phản
ứng chính thức đối với chiến lược “một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mở và tự
do” của chính quyền Trump nhưng tuyên bố này cho thấy Việt Nam dường như ủng hộ
một chiến lược như vậy, đặc biệt nếu xét đến ý đồ của Hà Nội nhằm đưa Ấn Độ can
dự vào khu vực Đông Nam Á một cách sâu sắc hơn. Sự ủng hộ đối với ASEAN và quan
hệ ASEAN – Mỹ cũng phản ánh lợi ích chung của hai nước trong việc duy trì trật
tự khu vực hiện hữu xoay quanh tổ chức khu vực này.
Bản tuyên bố chung cũng chứa đựng các ngôn từ mạnh mẽ hơn về
vấn đề Biển Đông so với các tuyên bố chung trước đây. Cụ thể, bên cạnh các lời
lẽ thường thấy về các vấn đề tự do hàng hải, giải quyết tranh chấp một cách hòa
bình, hay phi quân sự hóa các thực thể tranh chấp, hai bên cũng:
…kêu gọi thực thi đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về Ứng xử của
các bên ở Biển Đông (DOC), và sớm hoàn tất một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(COC) hiệu quả, có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Hai bên cũng kêu gọi tất cả
các bên yêu sách ở Biển Đông làm rõ và thực thi những yêu sách hàng hải của
mình phù hợp với luật pháp quốc tế, như được phản ánh trong Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật Biển 1982, và thực hiện một cách thiện chí những trách nhiệm pháp
lý quốc tế của mình trong quá trình quản lý và giải quyết tranh chấp (The White
House, 2017).
Cả hai lập trường này, vốn ngược với lập trường của Trung Quốc
và vì vậy nhiều khả năng làm Bắc Kinh khó chịu, đều chưa bao giờ được đưa vào
các tuyên bố chung trước đây. Trong khi bản tuyên bố này có thể được xem như là
một thắng lợi ngoại giao của Việt Nam, nó cũng cho thấy chính quyền Trump có một
lập trường về Biển Đông cứng rắn hơn so với chính quyền Obama. Một lập trường
như vậy sẽ giúp giải tỏa lo lắng của một vài quan chức Việt Nam rằng Trump có
thể nhượng bộ Trung Quốc về vấn đề Biển Đông để đổi lại sự ủng hộ của Bắc Kinh
đối với vấn đề Bắc Triều Tiên. Mặc dù vậy, liệu các luận điệu có trở thành hành
động thực tế hay không vẫn còn cần phải chờ xem.
Một điểm đáng chú ý khác của bản tuyên bố là khác với các
tuyên bố chung trước đây, nó chỉ đề cập tới vấn đề nhân quyền một cách sơ sài với
một câu ngắn gọn: “Lãnh đạo hai nước ghi nhận tầm quan trọng của việc bảo đảm
và thúc đẩy quyền con người”. Điều này khẳng định việc chính quyền Trump đã rời
xa truyền thống coi thúc đẩy nhân quyền là một ưu tiên chính trong chính sách đối
ngoại Mỹ. Mặc dù việc không nhấn mạnh vấn đề nhân quyền trong các cuộc trao đổi
song phương đã gây ra sự chỉ trích từ một số nhà hoạt động nhân quyền cũng như
một vài chính trị gia kỳ cựu của Mỹ, bao gồm Thượng Nghị sĩ John McCain (Fox
News, 2017), nhưng nó cũng cho thấy vấn đề nhân quyền giờ đây ít gây cản trở
hơn cho quan hệ song phương, điều có thể giúp hai bên xích lại gần nhau hơn nữa
dưới thời của Tổng thống Trump.
Tác động chiến lược của chuyến thăm
Luận điệu theo hướng chủ nghĩa cô lập của ông Trump trong
chiến dịch tranh cử cũng như quyết định rút nước Mỹ ra khỏi TPP sau khi lên nắm
quyền của ông đã gây ra quan ngại rằng Washington có thể giảm bớt sự can dự tại
châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Tuy nhiên, việc ông tham dự Hội nghị
thượng đỉnh các nhà lãnh đạo kinh tế APEC ở Đà Nẵng cũng như việc ông viếng
thăm 5 thủ đô của khu vực đã mang lại sự trấn an cần thiết rằng Washington vẫn
duy trì cam kết mạnh mẽ đối với khu vực này. Việc thông qua cái gọi là Chiến lược
về “một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mở và tự do” trước chuyến công du Châu Á
cũng mang lại một nguồn trấn an khác. Mặc dù chiến lược này vẫn cần phải được
làm rõ thêm, nó có thể cho thấy sự can dự chiến lược của Mỹ với châu Á không những
tiếp diễn mà còn có thể được mở rộng.
Chuyến thăm cấp nhà nước của ông Trump tới Việt Nam mang lại
một đòn bẩy mới cho quan hệ Việt – Mỹ. Việt Nam, cũng giống như một số nước
khác trong khu vực, đã khôn ngoan khi hưởng ứng chính sách ngoại giao thực dụng
của ông Trump bằng cách đưa ra các hợp đồng thương mại trong các chuyến thăm cấp
cao như là một biện pháp nhằm giành được sự ủng hộ của Trump cho quan hệ song
phương. Hơn nữa, với việc ông Trump không quan tâm nhiều tới vấn đề ý thức hệ
và nhân quyền, quan hệ song phương có thể trải qua một thời kỳ êm đềm trong nhiệm
kỳ của ông, đặc biệt nếu Hà Nội có thêm các lợi ích khác đưa ra trao đổi, bao gồm
các thỏa thuận mua vũ khí từ Hoa Kỳ.
Quan trọng hơn, do Hà Nội tăng cường quan hệ chiến lược với
Hoa Kỳ và các cường quốc lớn khác nhằm nâng cao vị thế đàm phán của mình trên
Biển Đông còn Washington thúc đẩy quan hệ với các đồng minh và đối tác an ninh
khu vực nhằm đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, quan hệ Việt – Mỹ nhiều khả
năng sẽ tiếp tục có động lực mạnh mẽ hơn trong những năm tới, đặc biệt là trong
lĩnh vực an ninh – quốc phòng. Dù quan hệ quốc phòng song phương đã cải thiện
đáng kể trong thập niên qua nhưng chúng vẫn còn tương đối hạn chế, chủ yếu do sự
lo ngại của Việt Nam về các phản ứng từ Trung Quốc. Tuy nhiên, các mối quan ngại
như vậy đang dần được hóa giải. Cả Hà Nội và Washington đều đang từng bước tiến
tới các cột mốc mới trong hợp tác an ninh – quốc phòng mà những cột mốc gần nhất
có thể sớm đạt được là chuyến thăm đầu tiên của một tàu sân bay Hoa Kỳ tới Vịnh
Cam Ranh và các hợp đồng mua sắm quốc phòng tiềm năng trong tương lai. Hà Nội
thực sự đang cố gắng biến các hoạt động hợp tác quốc phòng cấp cao với Hoa Kỳ
trở thành một tình trạng “bình thường mới”. Sự gia tăng xác quyết của Trung Quốc
trên Biển Đông, đặc biệt là cuộc khủng hoảng giàn khoan năm 2014 và việc Trung
Quốc xây dựng 7 đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa, đã mang lại những lý do
chính đáng cho Hà Nội trong việc nâng cao hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ và các
cường quốc khác nhằm ứng phó lại áp lực ngày càng gia tăng của Bắc Kinh trên Biển
Đông.
Tuy nhiên trong khi tăng cường quan hệ với Mỹ, Việt Nam cũng
tiếp tục cố gắng duy trì quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Việc xây dựng một mối
quan hệ tích cực và ổn định với Bắc Kinh càng quan trọng hơn đối với Hà Nội nếu
xét mong muốn của Hà Nội trong việc theo đuổi các sáng kiến hợp tác quốc phòng
quy mô lớn hơn với Hoa Kỳ. Chỉ 2 giờ trước khi Tổng thống Trump rời Việt Nam,
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tới Hà Nội để tiến hành một chuyến thăm cấp
nhà nước, cho thấy nỗ lực của Việt Nam trong việc nuôi dưỡng quan hệ với Trung
Quốc và duy trì sự cân bằng chiến lược giữa hai siêu cường. Quan hệ Việt –
Trung đã trở nên ổn định và được cải thiện đáng kể từ sau cuộc khủng hoảng giàn
khoan năm 2014. Tuy nhiên, triển vọng của quan hệ Việt – Trung vẫn chưa chắc chắn.
Căng thẳng song phương trên biển đã tạm lắng xuống trong năm qua nhưng chúng vẫn
còn âm ỉ và có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Tương tự như trong một trận đấm bốc, càng ôm chặt đối thủ
bao nhiêu thì người ta càng khó bị dính đòn của đối phương với nhiều. Chừng nào
Trung Quốc vẫn tiếp tục xác quyết trên Biển Đông và vẫn là một mối đe dọa chính
đối với Việt Nam thì Hà Nội có thể vẫn tiếp tục ôm chặt Bắc Kinh, không nhất
thiết như là một biểu hiện tình cảm, mà là một chiến lược có tính toán nhằm hạn
chế sự hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, tăng cường vị thế chiến lược của
Việt Nam nói chung, và tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng các mối quan hệ
chiến lược của Hà Nội với Hoa Kỳ và các cường quốc khác.
Lê Hồng Hiệp là nghiên cứu viên chính tại Viện Nghiên cứu
Đông Nam Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute), Singapore.
Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được đăng trên ISEAS
Perspective, ngày 22/11/2017.
Năm 2017 là một năm có nhiều sự kiện quan trọng đối với quan
hệ Việt Mỹ. Hồi tháng 5, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trở thành nhà lãnh đạo Đông
Nam Á đầu tiên tới thăm Nhà Trắng dưới thời Tổng thống Trump. Sáu tháng sau,
vào ngày 11-12/11, Tổng thống Trump đã tiến hành chuyến thăm cấp nhà nước tới
Việt Nam sau khi tham dự Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC tại Đà Nẵng. Kể
từ sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ năm 1995, tất cả các Tổng
thống Hoa Kỳ đều đã thăm Việt Nam trong nhiệm kỳ của mình nhưng ông Trump là
người đầu tiên làm việc này trong năm đầu tiên sau khi lên nắm quyền. Việt Nam
cũng là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên mà ông Trump viếng thăm kể từ khi nhậm chức.
Điều này càng có ý nghĩa hơn nếu xét việc Tổng thống Barack Obama đã thăm Hà Nội
hồi tháng 5/2016, đưa Việt Nam trở thành quốc gia Đông Nam Á duy nhất kể từ sau
Chiến tranh Lạnh đón tiếp hai tổng thống Mỹ đương nhiệm đến thăm trong 2 năm
liên tiếp.
Bài viết này phân tích tầm quan trọng của chuyến thăm bằng
cách xem xét các phản ứng của các quan chức và công chúng Việt Nam đối với chuyến
thăm, các kết quả quan trọng nhất cũng như tác động của nó đối với quan hệ Việt
Mỹ và bối cảnh chiến lược khu vực.
Các phản ứng đối với chuyến thăm
Trái với các quan điểm tương đối tiêu cực về chính quyền
Trump tại Hoa Kỳ và các nước khác, người dân Việt Nam nhìn chung có quan điểm rất
tích cực đối với ông Trump. Theo một cuộc khảo sát được tiến hành bởi Trung tâm
Nghiên cứu Pew, trong khi tỷ lệ đánh giá tích cực đối với Hoa Kỳ sau khi ông
Trump lên nắm quyền đã giảm mạnh ở hầu hết các nước được khảo sát thì Việt Nam
lại là một trong sáu quốc gia nơi nhận thức về hình ảnh Hoa Kỳ đã được cải thiện,
tăng từ 78% năm 2015 lên 84% năm 2017. Có tới 72% số người Việt Nam được khảo
sát coi ông Trump là một lãnh đạo mạnh trong khi 71% tin rằng ông xứng đáng làm
Tổng thống Hoa Kỳ. Các tỷ lệ này đều đáng chú ý nêu xét tỷ lệ trung bình toàn cầu
lần lượt là 55% và 26% (Pew Research Center, 2017; Storey, 2017).
Các hoạt động của Tổng thống Trump ở cả Đà Nẵng và Hà Nội đều
được thảo luận tích cực trên Facebook. Đặc biệt, việc ông nhắc tới cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng chống lại nhà Nam Hán như là một ví dụ của tinh thần yêu nước
của người Việt Nam trong bài diễn văn tại Hội nghị Thượng đỉnh CEO nhận được phản
ứng tích cực từ cộng đồng mạng Việt Nam. Người dân cũng xếp hàng dọc theo hành
trình của ông từ Sân bay Nội Bài tới Khách sạn Metropole để có thể tận mắt nhìn
thấy vị tỷ phú trở thành tổng thống. Họ đồng thời hô vang “Welcome to Vietnam”
để chào đón ông Trump và đoàn tùy tùng của ông.
Các phương tiện truyền thông đưa tin sâu rộng về chuyến thăm
và chuyến bay đáp xuống Nội Bài của ông Trump được truyền hình trực tiếp trên một
số kênh tin tức. Tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã
cho đăng một bài xã luận ca ngợi chuyến thăm như là một “bước phát triển mới
trong quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ”. Bài viết cho rằng:
Đón tiếp tổng thống D. Trump, Việt Nam khẳng định nhất quán
coi trọng phát triển quan hệ với Hoa Kỳ, hợp tác với chính quyền Tổng thống D.
Trump phát huy các kết quả hợp tác và tiếp tục thúc đẩy quan hệ song phương. Sự
kiện quan trọng này một lần nữa khẳng định đường lối đối ngoại của Việt Nam là
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế (Nhan Dan, 2017).
Các học giả và quan chức Việt Nam cũng có đánh giá tích cực
về chuyến thăm cũng như tầm quan trọng của nó đối với quan hệ Việt – Mỹ. Ví dụ,
TS. Cù Chí Lợi, Giám đốc Viện Nghiên cứu châu Mỹ tin rằng chuyến thăm là “một sự
kiện đặc biệt, là dấu ấn quan trọng trong quan hệ Việt – Mỹ”, thể hiện “mối
quan tâm đặc biệt” và mong muốn thúc đẩy quan hệ ngoại giao giữa hai nước của
Hoa Kỳ (Dan Tri, 2017). Trong khi đó, TS Trần Việt Thái, Phó Giám đốc Viện
nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao thuộc Học viện Ngoại giao nhấn mạnh rằng
ông Trump đã thăm Việt Nam ngay trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống và
cho rằng chuyến thăm là một sự kiện đặc biệt đối với cả Việt Nam lẫn khu vực,
thể hiện góc nhìn mới của Mỹ đối với vai trò của Việt Nam trong quan hệ song
phương cũng như các vấn đề khu vực và toàn cầu (BBC Vietnamese, 2017). Cựu Thứ
trưởng Ngoại giao và Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Lê Văn Bàng cũng nhấn mạnh tầm
quan trọng của chuyến thăm đối với Việt Nam và khu vực. Nhà cựu ngoại giao tin
rằng chuyến thăm phản ánh nỗ lực lớn của Hoa Kỳ và là một biểu hiện cho thấy Tổng
thống Trump đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong chính sách đối ngoại Mỹ
(Zing News, 2017).
Các kết quả chính của chuyến thăm
Hai bên đã đưa ra một bản tuyên bố chung tổng kết các kết quả
chính của chuyến thăm. Bản tuyên bố chung đề cập tới một loạt các chủ đề hợp
tác song phương từ kinh tế, quan hệ chiến lược tới giải quyết các vấn đề di sản
chiến tranh, quan hệ nhân dân, giáo dục, và quản lý nguồn nước ở Hạ lưu sông Mê
Kông. Tuy nhiên, các kết quả đáng chú ý nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chiến
lược.
Cụ thể hai bên đã cam kết sẽ làm sâu sắc hơn và mở rộng quan
hệ thương mại và đầu tư thông qua các cơ chế chính thức bao gồm Hiệp định Khung
về Thương mại và Đầu tư (TIFA) ký năm 2007. Điều này cho thấy hai bên, đặc biệt
là phía chính quyền Trump, vẫn chưa quan tâm hay sẵn sàng đàm phán một Hiệp định
Thương mại Tự do song phương sau khi Trump rút nước Mỹ ra khỏi Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Trong chuyến thăm, các doanh nghiệp hai bên đã ký các thỏa
thuận thương mại trị giá 12 tỷ đô la Mỹ, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực
phát triển dầu khí, mua bán ôtô, động cơ máy bay và hỗ trợ kỹ thuật đi kèm. Hồi
tháng 5, trong chuyến thăm của Thủ tướng Phúc tới Washington, hai bên cũng đã
ký 13 thỏa thuận thương mại trị giá 8 tỷ đô la Mỹ. Ông Trump từng cáo buộc Việt
Nam “đánh cắp” việc làm của người Mỹ và tại một cuộc gặp với Thủ tướng Phúc
trong chuyến thăm lần này, ông cũng đã phàn nàn về khoản thâm hụt thương mại
lên tới 32 tỷ đô la của Hoa Kỳ với Việt Nam. Các thỏa thuận này, vốn có thể
giúp tạo thêm công ăn việc làm cho công nhân Mỹ và giảm thâm hụt thương mại của
Mỹ với Việt Nam, có thể được xem như những thắng lợi ngoại giao kinh tế của ông
Trump và giúp ông nâng cao vị thế chính trị ở trong nước. Đây cũng là một biện
pháp giúp Việt Nam giành được sự ủng hộ của ông Trump đối với quan hệ song
phương.
Về hợp tác chiến lược, bản tuyên bố chung đề cao việc Mỹ
chuyển giao một tàu tuần tra lớp Hamilton từ Tuần Duyên Hoa Kỳ cho Việt Nam và
kế hoạch tổ chức chuyến thăm lần đầu tiên của một tàu sân bay Hoa Kỳ tới một cảng
Việt Nam vào năm 2018. Hai nước đã thông qua Kế hoạch Hành động về Hợp tác Quốc
phòng Việt Nam – Hoa Kỳ Giai đoạn 2015-2020 nhằm thực hiện Bản ghi nhớ năm 2011
về Phát triển Hợp tác Quốc phòng Song phương và Tuyên bố Tầm nhìn Chung về Quan
hệ Quốc phòng năm 2015. Cũng quan trọng không kém chính là kế hoạch của hai bên
nhằm làm sâu sắc hơn và từng bước mở rộng hợp tác tình báo và an ninh, nâng cao
việc chia sẻ thông tin và huấn luyện chung. Những hoạt động hợp tác này sẽ giúp
quan hệ quốc phòng giữa hai cựu thù thêm thực chất.
Kể từ khi Hoa Kỳ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát
thương đối với Việt Nam hồi tháng 5/2016, đã có những đồn đoán cho rằng Việt
Nam quan tâm tới một số trang thiết bị quân sự và vũ khí của Hoa Kỳ. Tuy nhiên,
vẫn chưa có thỏa thuận mua bán vũ khí nào được công bố. Trong chuyến thăm, ông
Trump được cho là đã gợi ý Việt Nam mua các trang thiết bị quân sự, máy bay và
tên lửa từ các nhà sản xuất Hoa Kỳ. Ông Trump nói với thủ tướng Việt Nam Nguyễn
Xuân Phúc rằng “Chúng tôi chế tạo những tên lửa tuyệt vời nhất thế giới, những
máy bay quân sự tuyệt vời nhất thế giới, những máy bay thương mại tuyệt vời nhất
thế giới. Vì vậy chúng tôi muốn Việt Nam mua từ chúng tôi và chúng ta phải xóa
bỏ tình trạng thâm hụt thương mại. Chúng ta không thể duy trì tình trạng thâm hụt
thương mại” (AFP, 2017). Cách ông Trump gắn hay vấn đề mua bán vũ khí với thâm
hụt thương mại có thể hàm ý rằng nếu Việt Nam đồng ý mua vũ khí từ Hoa Kỳ thì
ông Trump có thể bằng cách nào đó tìm cách giảm nhẹ vấn đề thâm hụt thương mại.
Thực tế, việc bán vũ khí cho Hà Nội dường như là một mục
tiêu quan trọng đối với Hoa Kỳ trong quan hệ với Việt Nam vì các thương vụ như
vậy có thể phục vụ cùng lúc nhiều mục đích. Các thương vụ này sẽ tạo thêm nhiều
việc làm và doanh thu xuất khẩu cho Hoa Kỳ, phù hợp với sứ mệnh “Làm cho nước Mỹ
vĩ đại trở lại” của Trump. Các thương vụ này cũng sẽ củng cố năng lực quốc
phòng của Việt Nam, phù hợp với lợi ích chiến lược của Mỹ ở Châu Á, đặc biệt là
việc duy trì cán cân quyền lực và trật tự khu vực trong bối cảnh Trung Quốc
đang trỗi dậy. Về phần mình, Việt Nam cũng đang tìm cách giảm bớt sự phụ thuộc
vào vũ khí nhập khẩu từ Nga và mua vũ khí từ Hoa Kỳ có thể là một lựa chọn hấp
dẫn nếu xét tới tiềm năng giúp củng cố hơn nữa quan hệ chiến lược Việt – Mỹ.
Hà Nội dường như đã có một số bước đi hướng tới mục đích
này. Trước khi ông Trump thăm Việt Nam, công ty VTA Telecom Corporation, một
công ty con của Tập đoàn Viettel, được cho là đã trả một hãng luật một khoản 40
nghìn đô la Mỹ mỗi tháng nhằm vận động hành lang các nhà làm luật và quan chức
chính phủ Hoa Kỳ về các vấn đề liên quan tới an ninh quốc gia và quốc phòng của
Việt Nam, đồng thời tận dụng việc Hoa Kỳ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí
sát thương để đẩy mạnh thương mại quốc phòng giữa hai nước (VOA Vietnamese,
2017). Sự hiện diện tại Hoa Kỳ của Viettel, công ty được chính phủ Việt Nam
giao dẫn dắt việc phát triển ngành công nghiệp quốc phòng, có thể liên quan tới
tuyên bố hồi năm 2015 rằng hai nước đang xem xét việc cùng sản xuất các trang
thiết bị quân sự. Nếu các thương vụ vũ khí và đặc biệt là việc sản xuất chung
các trang thiết bị quân sự trở thành hiện thực trong tương lai thì chúng sẽ
giúp chuyển biến một cách thực chất quan hệ quốc phòng Việt – Mỹ và mang các mối
quan hệ này lên một tầm cao mới.
Liên quan tới trật tự khu vực, hai bên hoan nghênh các sáng
kiến nhằm duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác và phát triển ở khu vực Ấn
Độ Dương – Thái Bình Dương, thừa nhận vai trò trung tâm của ASEAN trong khu vực,
cam kết sẽ tôn trọng và hỗ trợ vai trò trung tâm và sự đoàn kết của ASEAN trong
cấu trúc khu vực đang biến đổi, đồng thời cam kết làm sâu sắc hơn quan hệ chiến
lược ASEAN – Hoa Kỳ (The White House, 2017). Mặc dù Việt Nam chưa đưa ra một phản
ứng chính thức đối với chiến lược “một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mở và tự
do” của chính quyền Trump nhưng tuyên bố này cho thấy Việt Nam dường như ủng hộ
một chiến lược như vậy, đặc biệt nếu xét đến ý đồ của Hà Nội nhằm đưa Ấn Độ can
dự vào khu vực Đông Nam Á một cách sâu sắc hơn. Sự ủng hộ đối với ASEAN và quan
hệ ASEAN – Mỹ cũng phản ánh lợi ích chung của hai nước trong việc duy trì trật
tự khu vực hiện hữu xoay quanh tổ chức khu vực này.
Bản tuyên bố chung cũng chứa đựng các ngôn từ mạnh mẽ hơn về
vấn đề Biển Đông so với các tuyên bố chung trước đây. Cụ thể, bên cạnh các lời
lẽ thường thấy về các vấn đề tự do hàng hải, giải quyết tranh chấp một cách hòa
bình, hay phi quân sự hóa các thực thể tranh chấp, hai bên cũng:
…kêu gọi thực thi đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về Ứng xử của
các bên ở Biển Đông (DOC), và sớm hoàn tất một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
(COC) hiệu quả, có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Hai bên cũng kêu gọi tất cả
các bên yêu sách ở Biển Đông làm rõ và thực thi những yêu sách hàng hải của
mình phù hợp với luật pháp quốc tế, như được phản ánh trong Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật Biển 1982, và thực hiện một cách thiện chí những trách nhiệm pháp
lý quốc tế của mình trong quá trình quản lý và giải quyết tranh chấp (The White
House, 2017).
Cả hai lập trường này, vốn ngược với lập trường của Trung Quốc
và vì vậy nhiều khả năng làm Bắc Kinh khó chịu, đều chưa bao giờ được đưa vào
các tuyên bố chung trước đây. Trong khi bản tuyên bố này có thể được xem như là
một thắng lợi ngoại giao của Việt Nam, nó cũng cho thấy chính quyền Trump có một
lập trường về Biển Đông cứng rắn hơn so với chính quyền Obama. Một lập trường
như vậy sẽ giúp giải tỏa lo lắng của một vài quan chức Việt Nam rằng Trump có
thể nhượng bộ Trung Quốc về vấn đề Biển Đông để đổi lại sự ủng hộ của Bắc Kinh
đối với vấn đề Bắc Triều Tiên. Mặc dù vậy, liệu các luận điệu có trở thành hành
động thực tế hay không vẫn còn cần phải chờ xem.
Một điểm đáng chú ý khác của bản tuyên bố là khác với các
tuyên bố chung trước đây, nó chỉ đề cập tới vấn đề nhân quyền một cách sơ sài với
một câu ngắn gọn: “Lãnh đạo hai nước ghi nhận tầm quan trọng của việc bảo đảm
và thúc đẩy quyền con người”. Điều này khẳng định việc chính quyền Trump đã rời
xa truyền thống coi thúc đẩy nhân quyền là một ưu tiên chính trong chính sách đối
ngoại Mỹ. Mặc dù việc không nhấn mạnh vấn đề nhân quyền trong các cuộc trao đổi
song phương đã gây ra sự chỉ trích từ một số nhà hoạt động nhân quyền cũng như
một vài chính trị gia kỳ cựu của Mỹ, bao gồm Thượng Nghị sĩ John McCain (Fox
News, 2017), nhưng nó cũng cho thấy vấn đề nhân quyền giờ đây ít gây cản trở
hơn cho quan hệ song phương, điều có thể giúp hai bên xích lại gần nhau hơn nữa
dưới thời của Tổng thống Trump.
Tác động chiến lược của chuyến thăm
Luận điệu theo hướng chủ nghĩa cô lập của ông Trump trong
chiến dịch tranh cử cũng như quyết định rút nước Mỹ ra khỏi TPP sau khi lên nắm
quyền của ông đã gây ra quan ngại rằng Washington có thể giảm bớt sự can dự tại
châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Tuy nhiên, việc ông tham dự Hội nghị
thượng đỉnh các nhà lãnh đạo kinh tế APEC ở Đà Nẵng cũng như việc ông viếng
thăm 5 thủ đô của khu vực đã mang lại sự trấn an cần thiết rằng Washington vẫn
duy trì cam kết mạnh mẽ đối với khu vực này. Việc thông qua cái gọi là Chiến lược
về “một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mở và tự do” trước chuyến công du Châu Á
cũng mang lại một nguồn trấn an khác. Mặc dù chiến lược này vẫn cần phải được
làm rõ thêm, nó có thể cho thấy sự can dự chiến lược của Mỹ với châu Á không những
tiếp diễn mà còn có thể được mở rộng.
Chuyến thăm cấp nhà nước của ông Trump tới Việt Nam mang lại
một đòn bẩy mới cho quan hệ Việt – Mỹ. Việt Nam, cũng giống như một số nước
khác trong khu vực, đã khôn ngoan khi hưởng ứng chính sách ngoại giao thực dụng
của ông Trump bằng cách đưa ra các hợp đồng thương mại trong các chuyến thăm cấp
cao như là một biện pháp nhằm giành được sự ủng hộ của Trump cho quan hệ song
phương. Hơn nữa, với việc ông Trump không quan tâm nhiều tới vấn đề ý thức hệ
và nhân quyền, quan hệ song phương có thể trải qua một thời kỳ êm đềm trong nhiệm
kỳ của ông, đặc biệt nếu Hà Nội có thêm các lợi ích khác đưa ra trao đổi, bao gồm
các thỏa thuận mua vũ khí từ Hoa Kỳ.
Quan trọng hơn, do Hà Nội tăng cường quan hệ chiến lược với
Hoa Kỳ và các cường quốc lớn khác nhằm nâng cao vị thế đàm phán của mình trên
Biển Đông còn Washington thúc đẩy quan hệ với các đồng minh và đối tác an ninh
khu vực nhằm đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, quan hệ Việt – Mỹ nhiều khả
năng sẽ tiếp tục có động lực mạnh mẽ hơn trong những năm tới, đặc biệt là trong
lĩnh vực an ninh – quốc phòng. Dù quan hệ quốc phòng song phương đã cải thiện
đáng kể trong thập niên qua nhưng chúng vẫn còn tương đối hạn chế, chủ yếu do sự
lo ngại của Việt Nam về các phản ứng từ Trung Quốc. Tuy nhiên, các mối quan ngại
như vậy đang dần được hóa giải. Cả Hà Nội và Washington đều đang từng bước tiến
tới các cột mốc mới trong hợp tác an ninh – quốc phòng mà những cột mốc gần nhất
có thể sớm đạt được là chuyến thăm đầu tiên của một tàu sân bay Hoa Kỳ tới Vịnh
Cam Ranh và các hợp đồng mua sắm quốc phòng tiềm năng trong tương lai. Hà Nội
thực sự đang cố gắng biến các hoạt động hợp tác quốc phòng cấp cao với Hoa Kỳ
trở thành một tình trạng “bình thường mới”. Sự gia tăng xác quyết của Trung Quốc
trên Biển Đông, đặc biệt là cuộc khủng hoảng giàn khoan năm 2014 và việc Trung
Quốc xây dựng 7 đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa, đã mang lại những lý do
chính đáng cho Hà Nội trong việc nâng cao hợp tác chiến lược với Hoa Kỳ và các
cường quốc khác nhằm ứng phó lại áp lực ngày càng gia tăng của Bắc Kinh trên Biển
Đông.
Tuy nhiên trong khi tăng cường quan hệ với Mỹ, Việt Nam cũng
tiếp tục cố gắng duy trì quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Việc xây dựng một mối
quan hệ tích cực và ổn định với Bắc Kinh càng quan trọng hơn đối với Hà Nội nếu
xét mong muốn của Hà Nội trong việc theo đuổi các sáng kiến hợp tác quốc phòng
quy mô lớn hơn với Hoa Kỳ. Chỉ 2 giờ trước khi Tổng thống Trump rời Việt Nam,
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tới Hà Nội để tiến hành một chuyến thăm cấp
nhà nước, cho thấy nỗ lực của Việt Nam trong việc nuôi dưỡng quan hệ với Trung
Quốc và duy trì sự cân bằng chiến lược giữa hai siêu cường. Quan hệ Việt –
Trung đã trở nên ổn định và được cải thiện đáng kể từ sau cuộc khủng hoảng giàn
khoan năm 2014. Tuy nhiên, triển vọng của quan hệ Việt – Trung vẫn chưa chắc chắn.
Căng thẳng song phương trên biển đã tạm lắng xuống trong năm qua nhưng chúng vẫn
còn âm ỉ và có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Tương tự như trong một trận đấm bốc, càng ôm chặt đối thủ
bao nhiêu thì người ta càng khó bị dính đòn của đối phương với nhiều. Chừng nào
Trung Quốc vẫn tiếp tục xác quyết trên Biển Đông và vẫn là một mối đe dọa chính
đối với Việt Nam thì Hà Nội có thể vẫn tiếp tục ôm chặt Bắc Kinh, không nhất
thiết như là một biểu hiện tình cảm, mà là một chiến lược có tính toán nhằm hạn
chế sự hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, tăng cường vị thế chiến lược của
Việt Nam nói chung, và tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng các mối quan hệ
chiến lược của Hà Nội với Hoa Kỳ và các cường quốc khác.
Lê Hồng Hiệp là nghiên cứu viên chính tại Viện Nghiên cứu
Đông Nam Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute), Singapore.
Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được đăng trên ISEAS
Perspective, ngày 22/11/2017.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét