Ngày 21/12/2017 vừa qua, Liên Hiệp Quốc với đa số phiếu thuận đã tuyên bố rằng quyết định của Tổng thống Mỹ Donald Trump về vấn đề Jerusalem hồi đầu tháng này là vô hiệu lực (null and void).
Số là nửa tháng trước, Tổng thống Trump đã chính thức công nhận Jerusalem
là thủ đô của Israel, đồng thời dự kiến sẽ di chuyển đại sứ quán Mỹ từ
Tel Aviv đến thành phố này. Động thái này đã làm phá vỡ đồng thuận quốc
tế về mối quan hệ vốn nhiều xung đột giữa Israel và Palestine.
Jerusalem
vốn là miền đất hành hương của ba tôn giáo độc thần lớn: Hồi giáo, Do
Thái giáo, và Cơ Đốc giáo. Song chính quyền Israel bắt đầu chiếm giữ
phần lớn Jerusalem làm trung tâm kể từ năm 1948, và tới năm 1980 thì
tuyên bố thành phố này là thủ đô “toàn vẹn và thống nhất” của mình. Từ
đó tới nay, hầu hết cộng đồng quốc tế vẫn luôn từ chối công nhận
Jerusalem là thủ đô của Israel chừng nào mà thỏa thuận hòa bình còn chưa
đạt được.
Miền đất thánh
Cuộc tranh cãi về Jerusalem không chỉ đơn thuần là về địa chính trị, mà còn là những xung đột về đức tin.
Theo
Kinh Thánh Hebrew, từ xa xưa người Do Thái đã dựng nên hai ngôi đền
linh thiêng ở Jerusalem, như là trung tâm trong đời sống tín ngưỡng của
họ. Đây cũng là nơi vua David thiết lập thủ đô cho Vương quốc Israel
thống nhất hồi năm 1006 trước Công nguyên. Cho tới ngày nay, Jerusalem
vẫn là cội nguồn của đức tin Do Thái giáo. Giờ đây, một trong những bức
tường cũ của Đền thờ – được gọi là Bức tường Than Khóc – là nơi thờ tự
chính của tôn giáo này.
Đối
với người Hồi giáo, Jerusalem là một thánh địa linh thiêng, nơi vị tiên
tri Muhammad dừng chân trong Hành trình Đêm huyền bí. Theo cách giải
thích truyền thống về kinh Koran, Muhammad được thiên thần Gabriel rước
từ Mecca đến Nhà thờ Al-Aqsa ở Jerusalem rồi cưỡi con thiên mã Al Buraq
lên các tầng trời. Vì lẽ đó mà Jerusalem rất quan trọng trong đức tin
của người Hồi giáo.
Đối với người Cơ Đốc giáo, Nhà thờ Mộ cổ Holy Sepulchre ở Jerusalem là nơi mà nhiều người Cơ Đốc tin rằng Chúa Jesus đã chịu nạn,
bị đóng đinh trên cây thánh giá. Nhiều người cũng coi thành phố này là
nơi Chúa Jesus tái lâm lúc phán quyết cuối cùng. Jerusalem hiện nay là
một địa điểm hành hương chính cho tín đồ Cơ Đốc giáo từ khắp nơi trên
thế giới.
Một trăm năm binh biến
Tròn
100 năm trước, vào tháng 12 năm 1917, vị tướng người Anh Edmund Allenby
tiếm quyền kiểm soát Jerusalem từ tay người Turk của đế chế Ottoman vốn
cai trị thành phố kể từ năm 1517. Kể từ thời Đền thờ Thứ nhất và Đền
thờ Thứ hai, mãi tới khi người Anh cai trị thì Jerusalem mới lại được
thiết lập thành một thủ đô.
Những
năm cai trị của Anh là một quãng thời gian hỗn loạn. Đó là thời điểm
bùng nổ của dòng người Do Thái di cư, khi mà từ cuối thế kỷ 19, những
người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionism) đã nườm nượp đổ về
quanh vùng Jerusalem nhằm tái lập quê hương (hay còn được gọi là phong
trào Aliyah). Trong khi đó, lượng dân Ả Rập địa phương (với phần đa là
người Hồi giáo) lại giảm dần kể từ thất bại của đế chế Ottoman.
Cho
tới những năm Thế chiến thứ Hai, người Do Thái lại tiếp tục đổ về
Palestine nhằm chạy trốn cuộc tàn sát người Do Thái (Holocaust). Những
vấn đề này làm gia tăng áp lực phải tạo riêng một nhà nước Do Thái bên
trong Palestine thời hậu thế chiến.
Tới năm 1947, khi nước Anh chấm dứt quyền cai trị tại xứ này, Liên Hợp Quốc đã bỏ phiếu phân chia Palestine
thành ba khu vực Do Thái và bốn khu vực Ả Rập. Riêng Jerusalem được xác
định là một thực thể riêng biệt nằm dưới sự giám sát quốc tế vì có tính
đặc thù tôn giáo. Kế hoạch nhằm giải quyết xung đột giữa chủ nghĩa dân
tộc Palestine và chủ nghĩa dân tộc Do Thái này được các nước phương Tây
và Liên Xô nhiệt tình ủng hộ.
Các
quốc gia Ả Rập từ chối kế hoạch phân vùng của Liên Hợp Quốc. Sáu tháng
sau, khi Israel tuyên bố chủ quyền vào năm 1948, chỉ một ngày sau đó
quân đội của liên minh các quốc gia Ả Rập đã tấn công nhà nước Israel
mới. Tuy nhiên, họ bị thất bại chỉ một năm sau đó. Vậy là Jerusalem bị
chia tách bởi một biên giới đình chiến Green Line (biên giới này được vẽ
bằng mực xanh lá cây trên bản đồ): nhà nước mới Israel kiểm soát nửa
phía tây, và Jordan kiểm soát nửa phía đông bao gồm cả Thành phố Cổ.
Tháng
6 năm 1967, sau cuộc Chiến tranh Sáu Ngày cũng lại với Ai Cập, Jordan,
Syria và các quốc gia Ả Rập khác, Israel không chỉ đánh bại quân đội Ả
Rập mà còn nắm quyền kiểm soát Dải Gaza và bán đảo Sinai của Ai Cập;
chiếm luôn Đông Jerusalem và Bờ Tây từ Jordan; và cả Cao nguyên Golan từ
Syria. Kể từ đó, toàn cõi Jerusalem thuộc về quyền kiểm soát của
Israel.
Cộng
đồng quốc tế không công nhận thẩm quyền của Israel đối với lãnh thổ
này. Bởi toàn bộ Thành phố Cổ – với những thánh địa linh thiêng của cả
Do Thái giáo, Hồi giáo và Cơ đốc giáo, và chứa cả những thị trấn, làng
mạc và trại tị nạn Palestine – giờ đây lại do Israel nắm quyền kiểm soát
cuối cùng.
Sau cuộc nổi dậy suốt sáu năm của người Palestine, vào năm 1993, hiệp định Oslođã
tạo ra một chính quyền Palestine kiểm soát Bờ Tây và Dải Gaza, trong
khi trì hoãn giải quyết các vấn đề cốt lõi: ranh giới, những người tị
nạn và tình trạng của Jerusalem. Trong gần một phần tư thế kỷ kể từ đó,
những triển vọng về hòa bình đã trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.
Trật tự hiện có
Theo
giáo sư Michael Dumper chuyên nghiên cứu chính trị Trung Đông, ngày nay
Nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa và toàn bộ khu vực mà người Hồi giáo gọi là
Haram al-Sharif (Núi Đền) được điều hành bởi Waqf – một tổ chức tôn giáo
Hồi giáo dưới sự giám sát của chính phủ Jordan. Chính phủ Israel và một
nhóm các giáo sỹ Do Thái chính thống đang trực tiếp kiểm soát Bức tường
Than Khóc nằm dưới chân Núi Đền. Còn một liên minh các nhóm Cơ Đốc giáo
đang nắm quyền đối với Nhà thờ Holy Sepulchre.
Công ước Geneva lần thứ Tư (12/8/1949) cho
rằng kể từ sau khi phát xít thất bại sau Thế chiến thứ Hai, thì lãnh
thổ Jerusalem vẫn luôn nằm dưới sự “chiếm đóng thù nghịch của quân đội”.
Tuy nhiên, chính phủ Israel luôn coi rằng các điều khoản của các công
ước không áp dụng cho Jerusalem.
Trước
kia, vẫn có một vài nước đặt đại sứ quán tại Jerusalem, như là Hà Lan
và Costa Rica. Nhưng vào tháng Bảy năm 1980, sau khi Hội đồng lập pháp
Knesset của Israel thông qua Đạo Luật Cơ bản tuyên bố rằng “Jerusalem, vẹn toàn và thống nhất, là thủ đô của Israel”, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã đáp lại bằng nghị quyết 476 lên
án việc Israel sáp nhập Đông Jerusalem và tuyên bố hành động này là vi
phạm luật pháp quốc tế. Kể từ đó, các quốc gia dần chuyển đại sứ quán ra
khỏi thành phố. Cho tới năm 2006, Costa Rica và El Salvador là hai nước
cuối cùng rút đại sứ quán khỏi Jerusalem và dời đến Tel Aviv như mọi
quốc gia còn lại.
Riêng ở Mỹ, vào tháng 11 năm 1995, Quốc hội nước này đã thông qua một Đạo luật Đại sứ quán yêu
cầu Mỹ di chuyển đại sứ quán từ Tel Aviv về lại Jerusalem, với lý do
rằng Mỹ nên tôn trọng lựa chọn của Israel khi chọn Jerusalem là thủ đô
của nó. Tuy nhiên, các tổng thống Mỹ từ năm 1995 tới trước thời Trump –
tức là Clinton, Bush và Obama – đã từ chối di chuyển đại sứ quán, với lý
do lợi ích an ninh quốc gia, bằng cách mỗi sáu tháng họ lại sử dụng
quyền khước từ tổng thống.
Với
lịch sử nhiều hỗn loạn, Jerusalem rất có thể sẽ lại bị thổi bùng lên
thành trung tâm xung đột sau tuyên bố của Trump. Tuy nhiên, theo Michael
Schulson của tờ Washington Post,
trong khi lịch sử Jerusalem là một ca thử nghiệm về bạo lực tôn giáo
thì chính nó cũng là một phòng thí nghiệm đa nguyên. Hiếm có thành phố
nào có thể tự hào về sự đa dạng tôn giáo như vậy. Câu hỏi còn để ngỏ lúc
này là, liệu tuyên bố của Trump có làm lệch thế đa nguyên vốn tồn tại
trước nay hay chăng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét