Trong
70 năm, quân đội Mỹ đã thống trị các vùng biển và vùng trời ở Đông Á,
tận hưởng quyền tự do đi lại gần như tuyệt đối và khả năng ngăn cản
quyền tự do đó của kẻ địch. Tuy nhiên, hiện tại Trung Quốc đã có được
tên lửa tiên tiến và phương tiện phóng có khả năng tiêu diệt tàu, máy
bay và căn cứ của Mỹ trong vòng 500 dặm từ lãnh thổ Trung Quốc, cũng như
phá hoại các mạng lưới vệ tinh và máy tính vốn làm cơ sở cho sức mạnh
quân sự của Mỹ trên khắp Đông Á. Nhiều nhà phân tích người Mỹ lo sợ rằng
Trung Quốc có thể sử dụng các khả năng chống tiếp cận/ngăn chặn xâm
nhập khu vực (A2/AD) để ngăn cản quân đội Mỹ trong khi thực thi các
tuyên bố chủ quyền bành trướng của mình, vốn gồm phần lớn biển Hoa Đông
và Biển Đông. Một số người lo sợ rằng nếu không bị kiểm soát, Trung Quốc
cuối cùng sẽ trở thành một bá quyền của Đông Á và bắt đầu triển khai
sức mạnh quân sự sang các khu vực khác, trong đó có Tây bán cầu.
Quân
đội Mỹ nên phản ứng với các khả năng A2/AD của Trung Quốc như thế nào?
Một lựa chọn sẽ là sẵn sàng chuẩn bị tiêu diệt các lực lượng tấn công
của Trung Quốc ngay đầu một cuộc xung đột. Lựa chọn khác sẽ là từ bỏ
bằng cách rút các lực lượng Mỹ khỏi Đông Á, bãi bỏ các liên minh của Mỹ
trong khu vực và trao cho Trung Quốc một khu vực ảnh hưởng.
Cả
hai lựa chọn này đều có hạn chế. Việc chuẩn bị cho những cuộc tấn công
chặn trước nhằm vào các lực lượng A2/AD của Trung Quốc sẽ không chỉ tốn
kém, mà còn có thể làm tăng nguy cơ chiến tranh bằng cách khuyến khích
Mỹ và Trung Quốc nổ súng trước trong một cuộc khủng hoảng. Mặt khác,
việc rút lui không chỉ làm giảm tầm ảnh hưởng của Mỹ ở Đông Á, mà còn có
thể khuyến khích Trung Quốc tìm cách chinh phục nhiều phần của khu vực
này.
Liệu
Mỹ có một lựa chọn thứ ba không? Trong một bài viết trên tạp chí An
ninh quốc tế, tác giả lập luận cho điều một số nhà phân tích gọi là
chiến lược "ngăn chặn tích cực", một mức trung bình giữa sẵn sàng và từ
bỏ. Theo chiến lược này, Mỹ sẽ từ bỏ những nỗ lực chỉ huy vùng biển Đông
Á và thay vào đó, tập trung giúp đỡ các nước xung quanh biển Hoa Đông
và Biển Đông để ngăn cản Trung Quốc kiểm soát biển và bầu trời trong khu
vực. Trong thời bình, Mỹ sẽ giúp đỡ các lực lượng A2/AD của các nước
láng giềng của Trung Quốc bằng cách cung cấp cho họ viện trợ và vũ khí.
Trong thời chiến, quân đội Mỹ sẽ hỗ trợ các nước láng giềng của Trung
Quốc bằng cách cung cấp tin tức tình báo, hậu cần và nếu cần thiết, các
cuộc không kích và tấn công tên lửa hạn chế vào những lực lượng Trung
Quốc hoạt động bên ngoài bờ biển Trung Quốc.
Chiến
lược này duy trì sự răn đe bằng cách ngăn chặn khả năng Trung Quốc
giành chiến thắng quân sự quyết định trong khi nâng cao sự ổn định khủng
hoảng bằng cách bảo đảm với Trung Quốc rằng nước này sẽ không phải chịu
tấn công ồ ạt vào lãnh thổ đất liền của mình ngay ngày đầu của một cuộc
chiến. Điểm yếu tiềm tàng của chiến lược này đương nhiên là nó đòi hỏi
các nước láng giềng của Trung Quốc phải giữ vững trận tuyến chống sự
bành trướng của Trung Quốc trong những khoảng thời gian kéo dài và có lẽ
là không hạn định. Họ có khả năng làm điều đó không?
Tác
giả phát hiện ra rằng nhiều nước láng giềng biển của Trung Quốc trên
thực tế đã triển khai các khả năng A2/AD vốn có thể ngăn chặn Trung Quốc
kiểm soát biển và bầu trời một cách khả thi trên khắp các vùng biển gần
của nước này. Hơn nữa, Trung Quốc không thể có khả năng triển khai sức
mạnh cần thiết để vượt qua những lực lượng A2/AD này, vì các lực lượng
triển khai sức mạnh tốn kém hơn các lực lượng A2/AD một cấp độ lớn, nền
kinh tế Trung Quốc đang mất đà và tích lũy nợ khổng lồ, và các hoạt động
an ninh nội địa tiêu thụ lượng lớn nguồn lực quân sự của Trung Quốc. Do
đó, trong tương lai thấy trước, Trung Quốc khó có khả năng vẽ lại bản
đồ Đông Á bằng vũ lực - chừng nào các nước láng giềng vẫn sẵn sàng sử
dụng các lực lượng A2/AD của họ và Mỹ tiếp tục giúp đỡ và ủng hộ họ.
Những trở ngại đối với sự mở rộng hải quân của Trung Quốc
Chỉ
2 nước trong lịch sử hiện đại từng thiết lập thế bá quyền biển trong
khu vực: Mỹ từ những năm 1890 đến nay và Nhật Bản trong những năm 1930
và đầu thập niên 40 của thế kỷ 20. Cả 2 trường hợp đều cho thấy rằng
Trung Quốc sẽ cần 2 điều để thực thi phiên bản học thuyết Monroe của
riêng mình ở Đông Á: hiện diện quân sự trên các bờ biển xung quanh biển
Hoa Đông và Biển Đông, và độc quyền sức mạnh hải quân trong khu vực. Tuy
nhiên, Trung Quốc còn cách rất xa nữa mới đạt được 1 trong 2 mục tiêu
này.
Thứ
nhất, Mỹ và đế quốc Nhật Bản đã kiểm soát các vùng biển gần của họ bằng
cách chiếm các vùng đất xung quanh, đặt các căn cứ quân sự bên bờ biển
và ngăn các nước láng giềng xây dựng lực lượng hải quân độc lập. Ngược
lại, Trung Quốc hiện nay không có triển vọng kiểm soát các bờ biển ở
Đông Á. Các nước láng giềng ven biển của Trung Quốc có mật độ dân số cao
và sở hữu các quân đội hiện đại, và rất khó để thực hiện xâm lược đổ
bộ, nếu không muốn nói là không thể, trong thời buổi vũ khí điều khiển
chính xác.
Thứ
hai, Mỹ và Nhật Bản đã xây dựng và duy trì một sự độc quyền sức mạnh
hải quân, chiếm 80% đến 99% trọng tải hải quân trong khu vực tương ứng
của họ. Ngày nay, hải quân Trung Quốc chiếm chưa đến 30% trọng tải hải
quân của châu Á, và các nước châu Á tranh cãi với tuyên bố chủ quyền
trên biển của Trung Quốc cộng lại đạt ngang bằng mức Trung Quốc mua sắm
tàu ngầm, tàu nổi, máy bay và tàu tuần duyên cảnh sát biển hiện đại
trong 2 thập kỷ qua.
Hải
quân Trung Quốc có thể hùng mạnh nhất châu Á, nhưng các nước láng giềng
trên biển của nước này tranh giành nhiều phần của biển Hoa Đông và Biển
Đông trong khi trong nhiều trường hợp, Trung Quốc còn cách xa hàng trăm
dặm. Trong hầu hết kịch bản chiến tranh, các lực lượng không quân và
hải quân Trung Quốc sẽ cần phải di chuyển qua lại giữa các chiến trường
và căn cứ trên Đại lục, một quãng đường đi lại sẽ hạn chế nghiêm trọng
số lượng phương tiện quân sự mà Trung Quốc có thể duy trì trên chiến
trường, trong khi các nước láng giềng của Trung Quốc có thể tác chiến từ
các căn cứ trong nước liền kề tới chiến trường và do đó có sẵn vũ khí
đạn dược đầy đủ.
Nhiều
trong số các nước láng giềng của Trung Quốc đã tận dụng những lợi thế
địa lý này để phát triển các khả năng A2/AD bao gồm các dàn tên lửa đặt
trên bờ biển, tàu ngầm tấn công chạy bằng điêden, nhiều tàu chiến nổi
nhỏ và máy bay chiến đấu được vũ trang tên lửa chống tàu và ngư lôi. Do
đó, biển Hoa Đông và các khu vực phía Tây và Nam của Biển Đông hiện gần
với những lực lượng có khả năng ngăn chặn chỉ huy hải và không quân
Trung Quốc.
Ở
biển Hoa Đông, Nhật Bản vẫn tiếp tục là một lực lượng đáng gờm. Nhật
Bản đã tuyên bố kế hoạch nối một tuyến dàn phóng tên lửa dọc quần đảo
Ryukyu mà có thể nhắm mục tiêu tới tất cả phương tiện trên biển và trên
không trong vòng 200 đến 300 dặm giữa đất liền Nhật Bản với Đài Loan,
khu vực có quần đảo Senkaku. Nhật Bản đang mở rộng đội tàu ngầm của
mình, mua sắm các máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 được vũ trang
tên lửa hành trình chống tàu, duy trì các lực lượng chiến tranh chống
tàu ngầm hạng thế giới và một mạng lưới cảm biến rộng lớn dưới biển mà
có thể theo dõi đường đi của các tàu và tàu ngầm Trung Quốc khi chúng
rời cảng. Cán cân trọng tải hải quân đang nghiêng về phía Trung Quốc,
nhưng Nhật Bản vẫn có số lượng tàu chiến nổi lớn nhiều gần gấp đôi so
với Trung Quốc. 15 tàu tuần duyên và tàu khu trục nhỏ hơn của nước này,
dù ít hơn so với 57 tàu khu trục của Trung Quốc, sẽ có thể tiếp nhiên
liệu và đạn dược tại các cảng dọc quần đảo Ryukyu và vì thế duy trì nhịp
độ tác chiến cao hơn trong một cuộc chiến tranh trong các khu vực tranh
chấp ở biển Hoa Đông so với các tàu tên lửa và tàu khu trục của Trung
Quốc.
Ở
phía Tây Biển Đông, Việt Nam đã mua sắm các dàn tên lửa hành trình
chống tàu đặt trên bờ biển, tàu ngầm lớp Kilo, tên lửa đất đối không
tiên tiến, và hàng chục máy bay chiến đấu, cũng như tàu chiến nổi được
vũ trang tên lửa hành trình tiên tiến. Tập hợp lại, các phương tiện này
cho phép Việt Nam tiêu diệt tàu và máy bay hoạt động trong vòng 200 dặm
tính từ bờ biển nước này - một khu vực bao gồm một phần ba phía Tây của
Biển Đông và căn cứ quân sự của Trung Quốc trên đảo Hải Nam.
Ở
phía Nam của Biển Đông, Indonesia và Malaysia cũng đã phát triển các
khả năng để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc. Quân đội của 2 nước
này không gây ấn tượng nếu xét theo tiêu chuẩn của Trung Quốc, nhưng họ
có hàng chục căn cứ hải quân và không quân gần khu vực phía Nam “đường 9
đoạn” của Trung Quốc, trong khi Trung Quốc cách khu vực đó đến hơn
1.000 dặm. Trong một cuộc chiến tranh, Indonesia và Malaysia có thể sử
dụng toàn bộ sức mạnh hải quân và không quân của họ. Ngược lại, Trung
Quốc sẽ gặp rắc rối trong việc duy trì hơn một chục chiếc tàu nổi và tàu
ngầm cũng như hàng chục máy bay chiến đấu ở vùng tác chiến.
Không có nhiều cơ hội cho sự bành trướng của Trung Quốc
Trung
Quốc phải đối mặt với một hàng rào ngăn chặn sớm ở nhiều vùng ở Đông Á.
Tuy nhiên, có một số khu vực mà nước này có thể dễ dàng đánh bại sự
chống đối ở địa phương và thiết lập quyền kiểm soát trên không và trên
biển.
Một
trong những vực đó là Eo biển Đài Loan. Trung Quốc có 1.500 tên lửa
chính xác nhắm vào Đài Loan và hơn 1.000 máy bay chiến đấu tiên tiến.
Nếu Trung Quốc gây bất ngờ cho Đài Loan - với các dàn tên lửa, máy bay
và tàu biển của nước này đã được bố trí công khai - họ có thể tiến hành
các cuộc không kích và tấn công tên lửa bất ngờ và tiêu diệt hàng phòng
không tầm xa của Đài Loan, không quân mặt đất của Đài Loan và nhấn chìm
tàu hải quân lớn của Đài Loan chỉ trong vài giờ. Tin tốt là Trung Quốc
vẫn không có khả năng chinh phục Đài Loan, ngay cả khi không có sự can
thiệp của Mỹ, vì nước này thiếu khả năng tiến hành một cuộc xâm lược đổ
bộ hay duy trì một cuộc phong tỏa đáng kể. Hơn nữa, Mỹ có một loạt lựa
chọn để phá hoại một cuộc xâm lược hay phong tỏa của Trung Quốc mà tận
dụng được các lợi thế của Mỹ và sẽ không đặt các tàu nổi hay máy bay
không tàng hình của Mỹ trước mối nguy từ các lực lượng A2/AD của Trung
Quốc hay đòi hỏi Mỹ phải tấn công Trung Quốc Đại lục. Do đó Đài Loan
chắc chắn sẽ không phải chịu cuộc chinh phạt nào của Trung Quốc vào lúc
này, nhưng họ sẽ phải gia tăng đầu tư vào các lực lượng A2/AD và phòng
thủ dân sự nếu họ muốn tiếp tục được an toàn trong các thập kỷ sắp tới.
Khu
vực thứ hai dễ bị tấn công là ở phía Đông Bắc của Biển Đông, vốn do
Philippines tuyên bố chủ quyền, một nước đã không phát triển được bất kỳ
sức mạnh hải quân có ý nghĩa nào. Trong khi phần còn lại của khu vực đã
mua sắm vũ khí điều khiển chính xác và phương tiện tiên tiến để khai
hỏa, Philippines chỉ chi một phần rất ít ngân sách quốc phòng vào an
ninh nội địa. Rõ ràng, các nhà lãnh đạo ở Manila tin rằng Mỹ sẽ giải cứu
họ nếu Trung Quốc đưa hải quân của nước này vào vùng đặc quyền kinh tế
của Philippines. Quân đội Mỹ chắc chắn có thể tiêu diệt một lực lượng
đặc nhiệm hải quân Trung Quốc gần Philippines mà không gặp phải nhiều
rủi ro cho các lực lượng Mỹ, nhưng không gì bảo đảm họ sẽ làm vậy.
Washington chỉ có thể đánh liều đổ máu và mất mát nghiêm trọng khi các
lợi ích sống còn của Mỹ bị đe dọa. Trong khi một học thuyết Monroe của
Trung Quốc ở Đông Á sẽ đáp ứng được tiêu chuẩn này, việc Trung Quốc vi
phạm quyền đánh bắt cá của Philippines thì không. Vì thế góc phía Đông
Bắc của Biển Đông vẫn dễ bị tổn thương trước sự bành trướng của Trung
Quốc.
Cuối
cùng, Trung Quốc có thể mở rộng một cách bí mật thông qua một "chiến
lược bắp cải", trong đó nước này bao bọc các vùng biển tranh chấp bằng
nhiều lớp cảnh sát biển, dân quân trên biển và tàu đánh cá. Chiến thuật
này đã cho phép Trung Quốc áp đặt sự hiện diện đầy nhức nhối trong thời
bình ở một số khu vực nhỏ ở Đông Nam Á, tuy nhiên khó có khả năng nó cho
phép Trung Quốc chế ngự các vùng biển Đông Á. Một lý do là các nước
láng giềng của Trung Quốc cộng lại đã đạt ngang bằng mức mua sắm tàu
cảnh sát biển của Trung Quốc. Đội tàu của Trung Quốc vẫn là lớn nhất ở
châu Á, nhưng nó cũng phải trải mỏng để bảo vệ các tuyên bố bành trướng
của Trung Quốc, vốn bao gồm gần 2 triệu dặm vuông. Mặt khác, các nước
láng giềng của Trung Quốc tập trung các hạm đội của họ xung quanh những
tuyên bố chủ quyền hạn chế hơn. Quan trọng hơn, các nước láng giềng của
Trung Quốc đã bắt đầu sử dụng sức mạnh quân sự chống lại các tàu dân sự
của Trung Quốc, nổ súng và đuổi đánh họ và, trong trường hợp Indonesia,
cho nổ các tàu đó trên truyền hình quốc gia.
Những giới hạn đối với sự hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc
Cán
cân sức mạnh quân sự này ở Đông Á sẽ vẫn ổn định trong nhiều năm, vì
tình hình công nghệ quân sự có lợi rất nhiều cho các nước phòng thủ,
tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đang chậm lại, và các chiến dịch an ninh
nội địa làm cạn kiệt nguồn lực quân sự của Trung Quốc.
Thứ
nhất, phòng thủ là vấn đề chi phối, ít nhất bên trong vùng biển Đông Á,
vì vũ khí điều khiển chính xác cho phép thậm chí là các nước tương đối
yếu đánh chìm tàu nổi và bắn hạ máy bay gần đất liền của họ. Trước đây,
các nước láng giềng của Trung Quốc có thể phải tranh giành quyền kiểm
soát biển của Trung Quốc một cách đối xứng, bằng cách cử tàu chiến đi
bắn hạ đội tàu của Trung Quốc, một cuộc đấu mà họ gần như chắc chắn sẽ
thất bại. Hiện nay, các nước này có thể chống lại một cách bất cân xứng
sự bành trướng của Trung Quốc, bằng cách phóng vũ khí điều khiển chính
xác từ nhiều phương tiện phóng đơn giản vốn rẻ hơn trung bình 50 lần so
với các lực lượng triển khai sức mạnh Trung Quốc mà họ hoàn toàn có thể
đe dọa phá hủy.
Thứ
hai, nền kinh tế Trung Quốc - động cơ cho sự hiện đại hóa quân sự của
nước này - đang dần mất đà. Kể từ năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Trung Quốc đã giảm một nửa, và nợ của nước này đã tăng gấp 4 lần và
giờ đã vượt qua 300% GDP. Trên lý thuyết, Trung Quốc có thể giải phóng
tiền vốn cho tăng trưởng hiện đại hóa quân đội bằng cách rút bớt chi
tiêu xã hội. Trên thực tế, cắt giảm chi phí như vậy sẽ là bất khả thi,
vì Trung Quốc sắp trải qua cuộc khủng hoảng dân số già đi nhanh nhất
trong lịch sử loài người, với tỷ lệ người lao động trên người nghỉ hưu
thu hẹp từ mức 8/1 hiện nay xuống 2/1 vào năm 2040. Tới thời điểm đó,
Trung Quốc sẽ không có quỹ để chi trả 10 nghìn tỷ USD đến 100 nghìn tỷ
USD lương hưu. Nếu thêm vào đó là chi phí y tế liên quan đến một trong
những xã hội già nhất hành tinh, thì ngày càng rõ ràng Trung Quốc sẽ rất
may mắn mới có thể duy trì được mức độ chi tiêu quân sự tương lai giống
như hiện nay, chứ chưa nói đến gia tăng chi tiêu.
Thứ
ba, chi phí an ninh nội địa làm cạn kiệt một phần đáng kể nguồn lực
quân sự của Trung Quốc. Trung Quốc có biên giới trên biển và đất liền
với 19 nước, 5 trong số đó từng có chiến tranh với Trung Quốc trong thế
kỷ qua; biên giới Đông Bắc và Tây Bắc đầy lỗ hổng và là nơi ở của các
nhóm dân tộc thiểu số bất mãn; và chính phủ nước này đang phải điêu đứng
vì tình trạng náo động lớn ở trong nước. Để đối phó với các mối đe dọa
này, quân đội Trung Quốc dành hơn 1 triệu lính (khoảng 45% lực lượng tại
ngũ) cho an ninh nội địa và biên phòng. Chi phí duy trì các đơn vị này
tiêu tốn ít nhất 35% ngân sách quốc phòng của Trung Quốc, một "trở ngại
trong nước" kinh niên đưa các lực lượng triển khai sức mạnh hùng mạnh
ngày càng xa ra khỏi tầm với của PLA.
Một chiến lược "ngăn chặn tích cực" cho Mỹ
Mỹ
nên lợi dụng cán cân quân sự Đông Á đang tồn tại bằng cách áp dụng một
chiến dịch ngăn chặn tích cực bao gồm 2 thành phần chính.
Thứ
nhất, Mỹ nên giúp đỡ các lực lượng A2/AD của các nước láng giềng của
Trung Quốc bằng cách cung cấp cho họ các khoản vay, vũ khí, huấn luyện
và tin tức tình báo. Mục tiêu sẽ là biến các nước láng giềng của Trung
Quốc thành những "con nhím" gai góc, có khả năng ngăn chặn lãnh thổ đối
với Trung Quốc nhưng bản thân họ lại không chiếm giữ lãnh thổ. Mỹ đã
cung cấp một phần viện trợ cho các đối tác châu Á của mình, nhưng không
đủ và không phải luôn đúng loại cần thiết. Chẳng hạn, Mỹ đã trao cho
Philippines các khả năng chống nổi dậy, nhưng không đàm phán việc triển
khai các khả năng của Mỹ mà thực tế có thể đe dọa lực lượng hải quân và
không quân Trung Quốc, như dàn tên lửa đối không và chống tàu của lục
quân Mỹ. Một ví dụ khác là trong thời kỳ Chính quyền Obama, Mỹ đã bán
cho Đài Loan một số tàu đã ngừng sử dụng và một số tên lửa chống tăng
cũng như chống máy bay, nhưng không phải thứ gì đó có thể tăng cường khả
năng do thám, tấn công dưới mặt biển, trên không hay tầm xa của Đài
Loan - được cho là 4 nhân tố quan trọng nhất trong bất kỳ kịch bản chiến
tranh Trung-Đài nào. Gói bán vũ khí mới được Chính quyền Trump thông
qua bao gồm các nâng cấp rađa, tên lửa phóng trên không và ngư lôi,
nhưng không có viện trợ hữu hình dành cho sáng kiến đóng tàu ngầm non
trẻ của Đài Loan. Nói tóm lại, Mỹ có thể làm nhiều hơn nữa để biến chuỗi
đảo thứ nhất - trải dài từ Nhật Bản đến Indonesia - thành một hàng rào
ngăn chặn đáng sợ.
Thứ
hai, trong thời chiến, Mỹ nên củng cố cán cân sức mạnh địa phương,
nhưng nên làm vậy một cách từ từ. Trong các cuộc xung đột nhỏ, Mỹ sẽ tìm
cách thuyết phục Trung Quốc xuống nước bằng cách sử dụng các hình thức
ép buộc phi quân sự, kể cả trừng phạt tài chính, cấm vận hoặc các hoạt
động mạng. Nếu cuộc xung đột leo thang thành chiến tranh, Mỹ ban đầu có
thể "lãnh đạo từ phía sau", hỗ trợ các lực lượng địa phương bằng hậu
cần, tình báo và nếu tối cần thiết, các cuộc không kích và tấn công tên
lửa hạn chế vào những lực lượng Trung Quốc đang hoạt động trên chiến
trường thay vì các lực lượng đồn trú trên Đại lục. Các cuộc tấn công này
có thể được tiến hành từ tầm ngầm, máy bay tàng hình hoặc dàn pháo đặt
trên bờ biển di động trên đường dọc theo chuỗi đảo thứ nhất - tất cả ít
có khả năng bị tổn thương hơn nhiều trước các lực lượng A2/AD Trung Quốc
so với tàu nổi và máy bay không tàng hình. Nếu Mỹ cần gia tăng thương
tổn, nước này có thể leo thang theo chiều ngang thay vì chiều dọc; tức
là bằng cách mở các mặt trận địa lý mới (ví dụ như phong tỏa Eo biển
Malacca) thay vì đổ các lực lượng Mỹ vào chiến trường chính.
Chiến
lược này chắc chắn sẽ hy sinh sự hiệu quả quân sự để nâng cao ổn định
khủng hoảng. Quân đội Mỹ có thể giành được một lợi thế lớn so với quân
đội Trung Quốc nếu họ đơn thuần chỉ trút giận lên các căn cứ trên Đại
lục của Trung Quốc ở đầu một cuộc xung đột. Tuy nhiên, một thế công kích
như vậy không chỉ tốn tiền duy trì, mà còn có nguy cơ biến những cuộc
xung đột nhỏ thành các cuộc chiến tranh lớn. Trung Quốc có thể muốn nổ
súng trước trong một cuộc khủng hoảng, trong một nỗ lực liều lĩnh nhằm
khiến Mỹ sững sờ trước khi quân đội Mỹ "phá hủy hoàn toàn" các lực lượng
tấn công của Trung Quốc.
Nếu
Trung Quốc sẵn sàng tràn khắp Đông Á, có thể có lý khi Mỹ liều lĩnh gây
ra một cuộc chiến lớn để kiểm soát sự bành trướng của Trung Quốc. Tuy
nhiên, nghiên cứu của tác giả cho thấy rằng Trung Quốc không có năng lực
hoành hành theo kiểu đế quốc Nhật Bản trên khắp Đông Á. Do đó, rủi ro
đối với Mỹ trong một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và các láng giềng
của nước này sẽ là vừa phải, và mối nguy chính sẽ là làm quá nhiều chứ
không phải quá ít. Thay vì vội vàng tham gia một cuộc chiến tranh với
Trung Quốc, Mỹ nên lựa chọn cuộc đấu của mình kĩ càng, leo thang từ từ
và để các bên tham gia trong khu vực gánh phần việc nặng nề nhất.
***
Michael
Beckley là nghiên cứu viên Chương trình Nghiên cứu An ninh Quốc tế
thuộc Trung tâm Nghiên cứu Belfer về Khoa học và Quốc tế, Trường Quản
trị Nhà nước John F. Kennedy, Đại học Harvard; phó giáo sư về Khoa học
Chính trị Đại học Tufts. Bài viết được đăng trên War on the Rocks.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét