Chìa
khóa đích thực cho chính sách Israel của Washington là sự hậu thuẫn lâu
dài và rộng lớn của công chúng Mỹ nói chung dành cho quốc gia Do Thái.
Ngày
12 tháng Năm năm 1948, trước nội các chia rẽ của Tổng thống Harry
Truman, Clark Clifford, luật sư trưởng của Nhà Trắng, đưa ra những lí lẽ
biện hộ cho việc Hoa Kì công nhận quốc gia Do Thái. Với sự chứng kiến
của một George Marshall, bộ trưởng ngoại giao lườm lườm đôi mắt và một
Robert Lovett, thứ trưởng của Marshall đầy vẻ hoài nghi, Clifford lí
giải rằng việc công nhận quốc gia Do Thái sẽ là một hành động nhân đạo
phù hợp với những giá trị truyền thống của Mĩ. Để chứng minh cho quyền
đòi lãnh thổ của người Do Thái, Clifford đã trích dẫn Đệ nhị Luật của
Cựu ước (Deuteronomy): “Đây, ta trao đất đó cho các ngươi, hãy vào và
chiếm hữu đất mà Đức Chúa đã thề với cha ông các ngươi, là Áp-ra-ham,
I-xa-ác và Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho họ và dòng dõi họ sau này.” [1]
Marshall
không được thuyết phục cho lắm và đã nói thẳng với Truman rằng ông sẽ
bỏ phiếu chống lại vị tổng thống này trong kì bầu cử tới nếu đây là
chính sách của ông ta. Nhưng cuối cùng, Marshall đồng ý không công bố sự
chống đối của mình. Chỉ hai ngày sau đó, Hoa Kì thật sự công nhận tân
quốc gia Do Thái, 11 phút sau khi Israel tuyên bố sự hiện hữu của mình
như một quốc gia. Nhiều quan sát viên, trong cũng như ngoài nước Mĩ, gán
ghép quyết định của Truman với quyền lực của cộng đồng Do Thái tại Hoa
Kì. Họ cho rằng lá phiếu và ảnh hưởng báo đài của người Do Thái, cũng
như những đóng góp tài chánh của họ vào quĩ vận động tranh cử là trọng
yếu trong cuộc chạy đua sát nút vào Nhà Trắng năm 1948.
Kể
từ đó về sau, lối lí giải này cứ thế mà được lặp đi lặp lại. Những
chuyên gia khả kính về chính sách đối ngoại của Mĩ thường kêu gọi
Washington cần phải thận trọng với vùng Trung Đông và từng cảnh báo
nhiều vị tổng thống rằng sự hậu thuẫn quá đáng dành cho Israel sẽ gây
tổn thất nghiêm trọng cho Hoa Kì trên trường quốc tế. Khi các tổng thống
Mĩ gạt bỏ chuyên gia tư vấn qua một bên để đi theo một lập trường
thân-Israel, nhiều nhà quan sát bèn gán ghép động thái này cho nhóm vận
động hành lang của Israel và cứ thế mà khen (hay chê) nhóm này vì đã lay
chuyển được người đứng đầu ngành hành pháp. Tuy nhiên, còn có một yếu
tố khác cần được xét đến. Như người viết tiểu sử cho Truman là David
McCullough đã ghi nhận, sự hậu thuẫn mà Truman dành do quốc gia Do Thái
“được nhiệt liệt hoan nghênh” trên toàn nước Mĩ. Một cuộc thăm dò ý kiến
của Gallup tháng Sáu năm 1948 cho thấy rằng số người Mĩ “đồng tình với
người Do Thái” nhiều gấp ba lần số người Mĩ “có thiện cảm với người
Ả-rập”. Hậu thuẫn này không phải là một ngọn lửa rơm. Sự ủng hộ rộng lớn
của dân ngoại Do dành cho nước Israel là một trong những lực chính trị
mạnh nhất trong chính sách đối ngoại của Hoa Kì, và trong 60 năm qua,
chưa hề có một cuộc thăm dò nào của Gallup cho thấy số người Mĩ đồng
tình với người Ả-rập hay người Pa-lét-tin đông hơn số người bênh vực cho
dân Israel.
Hơn
thế nữa, qua thời gian, thiện cảm dành cho nước Israel ngày càng gia
tăng tại Mĩ, đặc biệt trong các tầng lớp dân chúng phi-Do-Thái
(non-Jews). Những năm Bush nắm chính quyền đánh dấu hậu thuẫn của Hoa Kì
dành cho Israel đạt đến mức cao hơn bao giờ cả, và hậu thuẫn này chưa
hề suy giảm suốt trong hai nhiệm kì của Bush. Sự gia tăng hậu thuẫn này
đã diễn ra thậm chí vào lúc tỉ trọng dân số của người Do Thái trong xã
hội Hoa Kì bị suy giảm. Vào năm 1948, người Do Thái chiếm khoảng 3,8
phần trăm dân số Hoa Kì. Cứ cho như hầu hết mọi người Do Thái tại Mĩ ủng
hộ một chính sách đối ngoại thân-Israel vào năm đó, thì khoảng 10 phần
trăm số người tại Mĩ ủng hộ Israel là có gốc gác Do Thái. Vào năm 2007,
người Do Thái chỉ chiếm 1,8 phần trăm dân số Hoa Kì và nhiều lắm họ cũng
chỉ chiếm 3 phần trăm số người ủng hộ Israel tại Mĩ.
Những
con số này, dù ấn tượng thật đấy, nhưng cũng chưa nói hết mức độ hậu
thuẫn thực sự của công chúng Mĩ dành cho Israel. Khi Trung tâm Nghiên
cứu Pew đặt câu hỏi trong một cuộc thăm dò ý kiến năm 2006, liệu chính
sách Mĩ ở Trung Đông có công bằng không, hay đã thiên vị Israel hoặc
thiên vị người Pa-let-tin, có đến 47 phần trăm số người trả lời phỏng
vấn cho rằng chính sách này công bằng, 6 phần trăm nói rằng chính sách
này bênh vực người Pa-let-tin, và chỉ 27 phần trăm nghĩ rằng chính sách
Mĩ đã thiên vị Israel. Cuộc thăm dò được xúc tiến trong thời gian Israel
tấn công lực lượng Hồi giáo Hezbolla ở Nam Li-băng, một thời điểm mà sự
hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel thậm chí gây nhiều tranh cãi trên
khắp thế giới hơn lúc bình thường. Vì thế, chúng ta phải kết luận rằng
khi trả lời cuộc phỏng vấn, nhiều người trong số những người Mĩ cho rằng
Hoa Kì có chính sách công bằng đối với cả hai phía trong cuộc xung đột
Trung Đông thật ra cũng chỉ là những người ủng hộ những chính sách mà
hầu hết quan sát viên nước ngoài sẽ cho là thân-Israel một cách quá nồng
nhiệt và thậm chí tắc trách. Ít khi công chúng Mĩ thiên về một chính
sách đối ngoại nào rõ nét như thế này, sâu sắc như thế này, bền bỉ như
thế này – và xung khắc với công luận của nhiều nước khác như thế này.
Ở
Hoa Kì, một chính sách đối ngoại thân-Israel không tiêu biểu cho sự
thắng thế của một nhóm vận động hành lang nhỏ bé vượt lên trên lên ý chí
của đại chúng. Trái lại, nó phản ánh sức mạnh công luận trong việc hình
thành chính sách đối ngoại bất chấp cả những lo ngại của giới chuyên
gia. Tương tự như cuộc chiến chống ma túy và hàng rào dọc theo biên giới
Mê-hi-cô, sự hậu thuẫn dành cho Israel là một chính sách đối ngoại của
Mĩ từng làm cho một số chuyên gia ái ngại nhưng lại chiếm được sự ủng hộ
rộng rãi của công chúng. Điều này không có nghĩa là “nhóm vận động hành
lang cho Israel” không hiện hữu hoặc không ảnh hưởng tới việc định
hướng chính sách của Mĩ tại Trung Đông. Điều này cũng không có nghĩa là
người Mĩ nên duy trì những định kiến của mình. (Tôi vẫn giữ quan điểm
rằng tất cả mọi người, kể cả người Mĩ và người Israel, sẽ được lợi lộc
nếu người Mĩ bày tỏ một sự hiểu biết toàn diện hơn và thiện cảm hơn đối
với nhu cầu của người Pa-let-tin.) Nhưng điều này thực ra có nghĩa là
cội nguồn sâu xa nhất của chính sách Trung Đông của Mĩ nằm ngoài vòng
đai thủ đô Washington và nằm ngoài cộng đồng Do Thái. Muốn hiểu lí do
tại sao chính sách của Hoa Kì luôn thiên vị Israel hơn là trung lập hay
thân với người Pa-let-tin, chúng ta phải nghiên cứu xuất xứ của sự hậu
thuẫn này từ giới bình dân và phi-Do-Thái (non-Jewish) đối với quốc gia
Do Thái.
Con cái của David [2]
Lịch
sử của việc Hoa Kì hậu thuẫn cho một quốc gia Do Thái tại Trung Đông
bắt đầu khá sớm. John Adams [vị tổng thống thứ hai của Hoa Kì] đã dùng
những lời lẽ bộc bạch nhất của mình: “Tôi thành thật cầu chúc cho người
Do Thái có lại một quốc gia độc lập trong vùng Judea.” Ông nói điều này
sau khi rời ghế tổng thống. Từ đầu thế kỉ 19 trở về sau, những người dân
ngoại Do [3]theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít [4] (gentile
Zionists) rơi vào hai trường phái. Phái Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic
Zionists) dự kiến người Do Thái sẽ trở về Đất Hứa như cách thể hiện theo
nghĩa đen lối giải thích lời các ngôn sứ trong Kinh thánh, những điều
tiên tri có liên quan tới sự trở lại trần gian của đức Ki-tô và ngày tận
thế. Chẳng hạn, dựa trên lối lí giải của chính mình về Chương 18 của
những lời tiên tri của ngôn sứ Isaiah [Cựu ước], mục sư John McDonald
thuộc giáo phái Albany Presbyterian đã tiên đoán vào năm 1814 rằng nhân
dân Mĩ sẽ giúp người Do Thái phục hồi quốc gia thời cổ đại của họ. Nhiều
tiếng nói trong giáo phái Mormon cũng chia sẻ quan điểm này; vào năm
1841, Kì mục Orson Hyde cho rằng việc người Do Thái trở về Đất thánh đã
được khởi động: “Không còn hoài nghi gì nữa, bánh xe vĩ đại hiện đang
chuyển động, lời của Đấng Toàn Năng đã tuyên bố rằng bánh xe đó sẽ lăn
nhanh.”
Những
tín đồ Ki-tô giáo khác, ít bám vào nghĩa đen của Kinh Thánh và ít dựa
vào ngôn sứ hơn, lại triển khai một chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiến bộ
(progressive Zionism), một lí thuyết có ảnh hưởng qua nhiều thập niên
đối với dân ngoại Do trong nhà thờ cũng như ngoài thế tục. Vào thế kỉ
19, những người Ki-tô giáo phóng khoáng thường tin rằng Thiên Chúa đang
xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua sự tiến bộ của loài người.
Họ nhận thấy nước Hoa Kì dân chủ và (tương đối) bình đẳng vừa là một
gương mẫu của thế giới mới mà Thiên Chúa đang tạo dựng vừa là một công
cụ vững mạnh để xúc tiến đồ án vĩ đại của ngài. Một số tín đồ Tin Lành
Mĩ (American Protestants) [5] tin
tưởng rằng Thượng Đế đang khởi động việc đưa những phần tử gọi là người
Do Thái bị xuống cấp và đày đọa trên thế giới trở về Đất Hứa, cũng như
Thượng Đế đang nâng đỡ và cải thiện cuộc đời của những người ngu si, kém
tin khác xuyên qua sự phát triển những nguyên tắc đạo lí Tin Lành phóng
khoáng. Họ mong muốn cho người Do Thái thành lập được một quốc gia
riêng vì họ tin rằng sự nghiệp lập quốc này sẽ che chở cho người Do Thái
khỏi sự bách hại và, thông qua sức mạnh cứu chuộc của tự do và sự cần
lao canh tác lương thiện, sẽ nâng cao và cải thiện tình trạng mà họ cho
là sự suy đồi đạo lí và sự dơ dáy đáng trách của người Do Thái đương
thời ở đế quốc Ottoman và đông Âu. [Cựu tổng thống Mĩ lúc bấy giờ là]
Adams đã nhận định: “Một khi có lại được một chính phủ độc lập và không
còn bị bách hại, những người Do Thái này sẽ sớm rũ bỏ phần nào tính cộc
cằn thô lỗ, những dị hợm trong nhân cách để có lúc trở thành người Ki-tô
giáo cởi mở tin vào một Thiên Chúa Nhất thể [6] (Unitarian
Christians).” Đối với những tín đồ Ki-tô giáo phóng khoáng nói trên,
chủ nghĩa Xi-ôn-nít Mĩ là bộ phận khắn khít của một chương trình rộng
lớn hơn nhằm biến đổi thế giới bằng cách xiển dương những lí tưởng của
Hoa Kì.
Không
phải tất cả mọi người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiến bộ đều gói ghém lí
luận của mình bằng từ ngữ tôn giáo. Ngay từ năm 1816, tờ Niles’ Weekly
Register, một báo định kì thông tin và bình luận hàng đầu của Mĩ vào nửa
đầu của thế kỉ 19, đã tiên đoán và hoan nghênh sự hồi hương sắp diễn ra
của người Do Thái, sự trở về một quốc gia độc lập với thủ đô là
Jerusalem. Tạp chí này dự phóng rằng sự nghiệp phục quốc và phục hồi
nhân cách của người Do Thái sẽ đẩy mạnh văn minh và tiến bộ – và hiển
nhiên là, điều này sẽ rất tốt đẹp cho cả Hoa Kì lẫn người Do Thái.
Về
phần mình, những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic
Zionists) trở nên đông đảo hơn sau cuộc Nội chiến của Hoa Kì. Quan điểm
của họ được triển khai cao độ về vai trò mà một quốc gia Do Thái được
phục hưng có thể nắm giữ trong những biến động dẫn đến ngày tận thế. Vào
giai đoạn này, những sách báo nêu bật sự phục quốc được tiên tri trong
Thánh kinh của người Do Thái và suy đoán về bản sắc và tiến trình hồi
hương các “bộ lạc thất tán” của dân Hêbrơ [7] cổ
đại là sách bán chạy nhất từ năm này sang năm khác. Sự liên kết giữa
Dwight Moody, một người rao giảng Tin Lành (evangelist) [8] hàng
đầu trong nước, và Cyrus Scofield, một học giả Kinh thánh quan trọng,
đã đặt lịch sử tương lai của nước Israel ở trung tâm tư duy của đạo Tin
Lành bảo thủ Mĩ.
Những
nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít này tìm được những đồng minh mới, dù đôi khi
không như ý, vào khoảng sau năm 1880, tức thời điểm mà đợt nhập cư đông
đảo người Do Thái Nga bắt đầu. Một số những di dân mới đến này và một số
người Do Thái Đức vốn đã hội nhập vào xã hội Mĩ – cả hai nhóm này –
nuôi hi vọng rằng Palestine sẽ thay thế Hoa Kì làm quê hương tương lai
cho hạng người bị coi là một tập thể di dân bị khinh ghét khác thường
lúc bấy giờ. Đối với những phần tử bài Do Thái (anti-Semites), sự thành
lập một quốc gia Do Thái có thể hoặc không có thể “chữa trị” người Do
Thái hết những tính chất [tiêu cực] mà nhiều dân ngoại Do gán ghép cho
họ, nhưng dù sao đi nữa sự thành lập một quốc gia như thế sẽ giảm bớt
làn sóng di dân của người Do Thái vào Hoa Kì.
Năm
1891, những nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít liên kết lại với nhau. William
Blackstone, lãnh đạo thế tục thuộc giáo phái Methodist, trình lên Tổng
thống Benjamin Harrison một kiến nghị kêu gọi Chính phủ Hoa Kì đứng ra
làm trung gian triệu tập một hội nghị các cường quốc châu Âu nhằm thúc
đẩy Đế quốc Ottoman giao trả Palestine lại cho người Do Thái. Bốn trăm
người kí tên, mà tuyệt đại đa số là các nhân vật phi-Do-Thái, gồm có chủ
tịch Tối cao Pháp viện; Chủ tịch Hạ viện; các chủ tịch Ủy ban tài chánh
Hạ viện và Ủy ban ngoại vụ Hạ viện; tổng thống tương lai William
McKinley; thị trưởng các thành phố Baltimore, Boston, Chicago, New York,
Philadelphia và Washington; chủ bút và chủ báo các nhật báo hàng đầu
trên bờ Đông và Chicago; và hàng giáo phẩm rất đáng nể của các giáo phái
như Episcopal, Methodist, Presbyterian và Công giáo. Các lãnh đạo doanh
nghiệp tham gia kí bản kiến nghị gồm có Cyrus McCormick, John
Rockefeller, và J.P. Morgan. Vào một thời điểm mà cộng đồng Do Thái tại
Hoa Kì vừa không đủ lớn, vừa không đủ mạnh, và cả giới vận động hành
lang cho Israel chưa hiện hữu, những thành phần nòng cốt của nhóm dân
ngoại Do quyền thế trong xã hội Mĩ (the American gentile establishment)
đã chính thức hậu thuẫn một nỗ lực ngoại giao của chính phủ Hoa Kì nhằm
lập ra một quốc gia Do Thái trên địa bàn của Kinh thánh.
Có chung mười điều răn
Bất
cứ một thảo luận nào về thái độ của Hoa Kì đối với Israel phải bắt đầu
từ Kinh thánh. Qua nhiều thế kỷ, tư duy của người Mĩ đã được thấm sâu
trong Kinh điển Hêbrơ. Ảnh hưởng này có xuất xứ từ việc tái phát hiện
Kinh thánh Cựu ước trong thời kì Cải cách (the Reformation), được tăng
cường do việc triển khai lí thuyết thần học Calvin [9] (một
tín lí nhấn mạnh sự liên lũy giữa những sự sắp đặt tiền định trong thế
gian, thời xưa và ngày nay, do hồng ân Thiên Chúa), và được làm sống
động hơn lên do những tương đồng lịch sử giữa những trải nghiệm hiện đại
của người Mĩ và những gì mà người Hêbrơ cổ đại đã kinh qua. Do đó, ngôn
ngữ, các gương anh hùng và tư tưởng Cựu ước luôn thấm sâu vào tâm thức
người Mĩ.
Qua
một thời gian dài ở giai đoạn đầu của lịch sử Hoa Kì, việc giảng dạy
tiếng Hêbrơ của kinh thánh là điều cưỡng bách ở các đại học Columbia,
Dartmouth, Harvard, Princeton và Yale. James Madison hoàn tất chương
trình học tại Princeton trong vòng hai năm, nhưng ở nán thêm một năm nữa
để học tiếng Hêbrơ. Nhiều giáo sĩ và nhiều tác giả thời Thuộc địa không
ngớt mô tả nước Mĩ là một Ca-na-an mới, “một miền đất tràn trề sữa và
mật”, đồng thời nhắc nhở thính, độc giả của mình rằng cũng như người
Hêbrơ đánh mất phước lành khi họ xúc phạm Thiên Chúa, người Mĩ cũng sẽ
chịu khổ nạn nếu họ không chịu nghe theo vị Thượng Đế đã dẫn dắt họ vào
miền đất hứa. Cho đến ngày nay, những điển cố Cựu Ước vẫn còn thấm đẩm
các bài viết cũng như diễn văn chính trị, và thậm chí trong cả địa lí
nữa– hơn một ngàn thành phố lớn, nhỏ tại Hoa Kì có tên lấy từ Kinh
thánh.
Biểu
hiện có tính tôn giáo sống động nhất nói lên tầm quan trọng của Kinh
thánh Cựu ước trong văn hoá Mĩ ngày nay là sự trỗi dậy của thuyết nói về
mệnh trời trước ngày tận thế (premillennial dispensationalism), đây là
một lối diễn giải những điều tiên tri trong kinh thánh, một lý thuyết
mang lại trọng lượng đặc biệt cho các ý niệm tôn giáo trong Cựu ước như
khoa thần học giao ước (covenant theology) [10] ,
và dành vai trò quyết định lịch sử tương lai cho quốc gia Do Thái, một
quốc gia được phục hồi (với thủ đô là Jerusalem). Khoảng chừng 7 phần
trăm dân Mĩ tỏ ra có lập trường thần học này (nghĩa là nhóm này đông gần
gấp 4 lần cộng đồng Do Thái tại Mĩ), đồng thời không ít thì nhiều một
số đông hơn đáng kể chịu ảnh hưởng của khuynh hướng này. Những người đề
xuất quan điểm này thường (dù không luôn luôn) chia sẻ quan điểm của một
số người Do Thái chính thống, rằng người Do Thái phải đòi cho bằng được
một quốc gia bao gồm tất cả phần lãnh thổ mà người Hêbrơ từng được
Thiên Chúa hứa hẹn; họ chống lại bất cứ một khoan nhượng lảnh thổ nào
với người Pa-lét-tin và họ hậu thuẫn các khu định cư Do Thái ở bờ Tây
sông Jordan. Tuy nhiên, đây vẫn là một quan điểm của thiểu số, ngay cả
dưới con mắt những người ủng hộ Israel tại Mĩ.
Trái
lại, chủ nghĩa Xi-ôn-nít Ki-tô giáo tiến bộ liên quan nhiều với đức lí
Ki-tô giáo, hơn là dựa vào lời của các ngôn sứ. Phần lớn chủ nghĩa này
có gốc rễ trong mặc cảm tội lỗi và trong ý thức rằng sự bạc đãi của
người Ki-tô giáo đối với người Do Thái trong quá khứ hiện đang cản trở
người Do Thái chấp nhận Ki-tô giáo. Hơn một ngàn năm, người Do Thái ở
châu Âu đã chịu đựng những hành động tàn ác phi thường và lắm khi không
ngôn từ nào diễn tả được do bàn tay của người Ki-tô giáo châu Âu. Mặc dù
một số tín đồ Tin Lành Mĩ có thời đã kéo dài lịch sử thiếu độ lượng và
bài Do Thái này, nhưng từ thế kỉ 19 trở về sau nhiều tín đồ Tin Lành
phóng khoáng Mĩ đã coi việc từ bỏ quá khứ này như một trong những nhiệm
vụ xác định tính chất của một giáo hội Mĩ cải cách và giác ngộ. Những
tín đồ Tin Lành này có thể (và đã thoải mái) chỉ trích chủ nghĩa bài Do
Thái của Công giáo La Mã, gọi đây là một hậu quả do những thối nát đáng
tiếc dưới chế độ giáo hoàng; nhưng người ta cũng không dễ gì bỏ qua
những hành động và những tuyên truyền bài bác Do Thái do chính những nhà
cải cách tôn giáo như [người sáng lập đạo Tin Lành] Martin Luther.
Nhiều thành viên trong các giáo phái Tin Lành cởi mở Mĩ đã coi mình có
nhiệm vụ thiêng liêng là phải hoàn tất sự nghiệp của thời Cải cách (the
Reformation) bằng cách tẩy sạch Ki-tô giáo khỏi những tàn tích “trung
cổ” như mê tín, thiên kiến, và chủ nghĩa bài Do Thái. Việc sám hối những
tội lỗi quá khứ bằng cách bênh vực người Do Thái đã và đang là một thể
nghiệm đức tin quan trọng đối với nhiều (mặc dù hẵn nhiên không phải đối
với tất cả) tín đồ Tin Lành Mĩ.
Tương
phản với thái độ thân Do Thái, đa số tín đồ Ki-tô giáo Mĩ ít khi hoặc
không hề có cảm thức tội lỗi nào về những lối ứng xử trong lịch sử của
cộng đoàn mình đối với thế giới Hồi giáo. Nhiều tín đồ Hồi giáo coi cuộc
xung đột Ki tô giáo-Hồi giáo kéo dài hơn một ngàn năm qua là một hiện
tượng liên tục và tương đối thuần nhất, nhưng tín đồ Tin Lành Mĩ lại
không nhìn nhận như vậy. Chẳng hạn, họ thường chê trách những tàn bạo
của các cuộc Thập tự chiến (the Crusades) và chỉ trích quan niệm thánh
chiến, nhưng họ lại coi đây là những sai lầm của Công giáo La mã chứ
không phải của Ki-tô giáo nói chung. Và dẫu sao, họ coi những cuộc Thập
tự chiến ấy như đã lùi sâu vào dĩ vãng và âu cũng là phản ứng trả đũa sự
xâm lấn trước đó của người Hồi giáo. Họ cũng thường phê phán sự bóc lột
thuộc địa của các cường quốc châu Âu trong các thế kỉ vừa qua, nhưng họ
lại coi những khai thác bóc lột đó là do tham vọng đế quốc của Cựu thế
giới chứ không do Ki-tô giáo gây ra và vì thế đó là điều họ không chịu
trách nhiệm. (Một biệt lệ quan trọng đáng được nhắc đến: Nhiều nhà
truyền giáo Mĩ hoạt động tích cực ở Trung Đông đã tạo được quan hệ sâu
đậm với người Ả-rập trong vùng và đã hậu thuẫn mạnh mẽ cho chủ nghĩa dân
tộc Ả-rập, vừa vì họ không ưa thích chủ nghĩa thực dân châu Âu vừa vì
họ hi vọng một phong trào dân tộc có tính thế tục sẽ cải thiện vị thế
của các Ki-tô hữu Ả-rập. Cộng đồng truyền giáo này vừa góp phần phát
triển đội ngũ giới chức quan tâm đến quyền lợi Ả-rập trong Bộ Ngoại giao
Mĩ vừa giúp tạo ra phản ứng khá dữ dội trong nhiều giáo phái Tin Lành
chính mạch chống lại các chính sách của Israel trong vùng lãnh thổ bị
chiếm đóng sau cuộc chiến 1967.)
Khoảng
trước năm 1948, nhiều tín đồ Ki-tô giáo Mĩ cảm thấy một gánh nặng lương
tâm về món nợ và nghĩa vụ lịch sử đối với người Do Thái, nhưng họ không
hề cảm thấy điều này đối với người Á rập. Có chăng là, họ chỉ nghĩ rằng
thế giới Hồi giáo phải chịu mang ơn các nhà truyền giáo Hoa Kì đã xây
dựng nhiều đại học và bệnh viện hàng đầu tại Trung Đông và rằng chính sự
hậu thuẫn của người Ki-tô giáo Mĩ trước và sau Thế chiến II đã góp phần
thúc đẩy sự trổi dậy của các quốc gia Á rập và Hồi giáo độc lập, một
phong trào đang diễn tiến lúc bấy giờ.
Những người bà con do Chúa chọn
Ý
thức về bản sắc riêng biệt và sứ mệnh của Hoa Kì được bồi đắp qua quá
trình tiếp thu sử sách và tư tưởng Hêbrơ. Nhà văn Mĩ Herman Merville đã
diễn tả quan điểm này như sau: “Người Mĩ chúng ta là nhân dân đặc biệt,
được Chúa chọn – là nước Israel thời đại mới; chúng ta gánh lấy chiếc
thuyền Nô-ê chứa đầy các quyền tự do trên thế giới.” Từ thời đại của
những người Thanh giáo (Puritans) cho đến ngày nay, nhiều giáo sĩ, nhà
tư tưởng và chính khách tại Hoa Kì – thế tục cũng như tôn giáo, phóng
khoáng cũng như bảo thủ – vẫn coi người Mĩ là một khối nhân dân do Chúa
chọn, ràng buột với nhau theo huyết thống thì ít nhưng theo một hệ thống
tín lí và một định mệnh chung thì nhiều. Nhiều người Mĩ vẫn còn tin
tưởng rằng Thiên Chúa (hay lịch sử) đã đưa họ đi vào một vùng đất mới và
làm cho họ trở thành vĩ đại, giàu có, và rằng sự phồn vinh bền vững của
họ sẽ tùy thuộc vào việc họ chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa hay
theo đúng những nguyên tắc đạo lí đã mang lại ơn phước cho họ từ trước
tới nay. Nếu họ sao lãng những nguyên tắc này – như khi người Do Thái
quay ra sùng bái con bò bằng vàng lúc Mô-se vắng mặt – thì tai họa sẽ
giáng xuống trên đầu họ.
Cả
người Mĩ mộ đạo lẫn người Mĩ thế tục đều hướng tới Kinh thánh Hêbrơ để
tìm ra một tấm gương của một dân tộc có tính đặc thù nhờ sứ mệnh riêng
và được ơn kêu gọi gánh vác một định mệnh là làm thay đổi thế giới. Phải
chăng đất đai người Mĩ đang cư ngụ đã có thời thuộc về người khác? Vâng
đúng vậy, nhưng trong một cách thế tương tự, người Hêbrơ đã từng chiếm
đất của người Ca-na-an. Phải chăng các thuộc địa bé nhỏ tại Mĩ chỉ được
trang bị bằng sức mạnh công lí của chính nghĩa mà đã đánh thắng một đế
quốc vĩ đại nhất thế giới? Vâng, cũng giống như David, cậu bé chăn cừu
khiêm tốn, đã quật ngã người khổng lồ Goliath. [11] Phải
chăng người Mĩ vào thế kỉ 19 từng bị cô lập và bị nhạo báng vì những lí
tưởng dân chủ của mình? Vâng, trong hoàn cảnh tương tự, người Hêbrơ
cũng bị các sắc dân thờ bái thần tượng bao vây. Phải chăng người Mĩ đã
từng đánh thắng giặc trong, thù ngoài? Vâng, theo Kinh thánh, người
Hêbrơ cũng từng chiến thắng như vậy. Phải chăng vì vi phạm chính những
tín lí của mình khi cầm giữ hàng triệu nô lệ, người Mĩ đã bị trừng phạt
và hứng chịu nhiều tai hoạ? Vâng, rất giống như người Hêbrơ, một dân tộc
đã hứng chịu hậu quả của tội lỗi mình trước mặt Thiên Chúa.
Nhận
thức đầy huyền thoại này về bản chất và định mệnh nước Mĩ là một trong
những yếu tố có tác động mạnh mẽ và bền bỉ nhất trong văn hóa và tư
tưởng Hoa Kì. Như người Hêbrơ cổ đại từng tin tưởng, nhiều người Mĩ ngày
nay cũng tin tưởng rằng họ mang một mặc khải, nhiên hậu không những cho
chính họ mà cho toàn thế giới; họ thường tự coi mình là nước Israel mới
của Thiên Chúa. Một trong những hậu quả của việc nhìn họ hàng (presumed
kinship) này là nhiều người Mĩ cho rằng việc một dân tộc được Chúa chọn
(chosen people) này hậu thuẫn cho một một dân tộc được Chúa chọn khác
là điều vừa hợp lẽ phải vừa chính đáng. Họ không cảm thấy áy náy khi sự
hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel, một dân tộc và một quốc gia thường
bị nhiều nước cô lập và khai trừ, làm cho Hoa Kì bị ghét lây hoặc gây
ra nhiều vấn đề khác. Việc Hoa Kì nhận lãnh vai trò của một kẻ che chở
cho Israel và một người bạn của người Do Thái là một cách hợp thức hóa
địa vị riêng của một quốc gia được Thiên Chúa giao cho một định mệnh độc
đáo.
Hơn
thế nữa, từ thế kỉ 19, Hoa Kì đã tự coi mình là đại lí được Thiên Chúa
chọn ra để bảo vệ và cứu chuộc dân tộc Do Thái. Người Mĩ từng tin rằng
người Do Thái sẽ vươn lên từ thân phận đọa đày khi họ rời bỏ những khu ổ
chuột trong thành phố để về sống ở các vùng thôn quê – y như những
người di dân đến Mĩ từ khắp châu Âu đã xây dựng được cuộc sống tốt đẹp
hơn và nhân cách vững vàng hơn khi họ trở thành những nông dân theo mô
hình kinh tế nông nghiệp Jefferson (Jeffersonian farmers) [12] .
Những tín đồ Ki-tô giáo cởi mở như [tổng thống] Adams tin tưởng rằng
tiến trình này sẽ kịp thời đưa người Do Thái đến với ánh sáng của giáo
phái Tin Lành khai phóng, nằm trong nỗ lực là thăng tiến toàn thể nhân
loại. Còn những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiên tri (prophetic
Zionism) thì hi vọng rằng việc hàng loạt người Do Thái cải sang Ki-tô
giáo hồi sinh (revivalist Christianity) sẽ nhanh chóng chuyển sang giai
đoạn khải huyền [tận thế] cùng với sự trở lại thế gian của đức Ki-tô.
Bằng cách này hoặc bằng cách khác, vai trò đặc biệt của Hoa Kì trong
việc phục hồi nhân phẩm và chỗ đứng của người Do Thái đã thể hiện những
kì vọng của dân ngoại Do Mĩ về sự chuyển động của lịch sử và khẳng định
niềm tin tưởng của họ về bản sắc và sứ mệnh của Hiệp Chúng Quốc.
Những quốc gia thực dân
Hiệp
Chúng Quốc và Israel còn có chung một tình trạng là “quốc gia thực
dân”–những nước được thành lập bởi các dân tộc đã giành quyền kiểm soát
lãnh thổ cho riêng mình sau khi trục xuất các dân tộc bản địa. Cả hai
quốc gia được nhào nặn mạnh mẽ bởi một lịch sử xung đột và đối đầu với
những sắc dân bị họ trục xuất, và cả hai đều tìm lí lẽ biện minh cho
hành vi của mình từ những nguồn đạo lí tương tự. Cả người Mĩ lẫn người
Israel chủ yếu tìm sự biện minh từ Kinh thánh Cựu ước, trong đó có những
trang sách thiêng liêng kể lại tích truyện về sự xung đột giữa người
Hêbrơ cổ đại và người Ca-na-an, cư dân trước đó của phần lãnh thổ mà
người Hêbrơ tin tưởng là Đất Hứa của họ. Người Mĩ tìm thấy nhiều hấp dẫn
trong quan niệm cho rằng họ là quốc gia Israel mới của Thiên Chúa một
phần cũng vì quan niệm này biện minh cho việc họ đã trục xuất và giành
đất của người Mĩ bản địa [dân da đỏ]. Như Theodore Roosevelt đã viết
trong cuốn lịch sử miền Tây Hoa Kì, đương thời được liệt là sách bán
chạy nhất: “Nhiều người trong những công dân xuất sắc ở vùng sâu vùng xa
là những người ham đọc Kinh Thánh, nhưng họ được nuôi dưỡng theo một
đức tin phần lớn được rao giảng trong Cựu ước, một đức tin không coi
trọng lòng thương hại, sự thật, hay từ bi. Họ nhìn kẻ thù của mình theo
cách những ngôn sứ Hêbrơ đã nhìn kẻ thù của Israel. Những hành vi ghê
tởm đã khiến cho người Ca-na-an bị tiêu diệt trước mắt Joshua [13] đâu
có nghiã lí gì nếu đem so với những sự hèn hạ của bọn mọi da đỏ khiến
người Mĩ, cũng là một giống dân Chúa chọn, đến phiên mình có bổn phận
phải thừa hưởng đất đai của chúng.” (Bản thân Roosevelt, cũng như những
người em họ Franklin và Eleanor, là một người Ki-tô giáo theo chủ nghĩa
Xi-ôn-nít. “Đối với tôi, việc khởi sự thành lập một quốc gia Xi-ôn-nit
chung quanh Jerusalem là hoàn toàn thích đáng”, Roosevelt viết như thế
năm 1918.)
Ngoài
một lời hứa hẹn trực tiếp từ Thiên Chúa, hai biện minh quan trọng mà
người Mĩ đưa ra trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ với người Mĩ bản
địa là quan niệm cho rằng họ chỉ bành trướng vào “những vùng đất hoang
vu” và lí thuyết liên hệ của John Locke về “việc sử dụng tài sản công
bằng hợp lí”, theo đó một tài sản không có người dùng là một sự phí phạm
và là một xúc phạm đối với thiên nhiên. Những người đến lập nghiệp ở Mĩ
cho rằng chỉ những ai có thể cải thiện đất đai, bằng cách thiết lập san
sát trên đó nhiều nông trại rộng lớn và xây dựng trên đó nhiều phố thị,
mới có thực quyền làm chủ đất đai ấy. Từ năm 1802 [tổng thống tương
lai] John Quincy Adams đã bênh vực cho luận điểm này: “Liệu [người da
đỏ] dám bắt cả một vùng đất bao la của địa cầu phải chịu đời đời hoang
phế hay sao…? Còn Thomas Jefferson thì cảnh báo rằng những người Mĩ bản
địa nào không chịu học hỏi người da trắng, không đi vào con đường canh
tác sản xuất thì phải chịu số phận đen tối. Họ sẽ “thoái hoá trở lại
tình trạng man rợ khốn cùng, sẽ hao hụt dân số vì chiến tranh và thiếu
đói; khi đó chúng ta buột lòng phải xua đuổi họ, cùng với loài dã thú
trong rừng, vào vùng núi đá.”
Suốt
phần lớn lịch sử Hoa Kì, những quan điểm như thế có âm hưởng lớn không
những đối với dân vùng sâu vùng xa mà còn đối với cả những công dân lịch
lãm và phóng khoáng. Những luận cứ này mang một ý nghĩa đặc biệt khi
bàn đến Đất thánh. Trong khi người Mĩ mộ đạo miệt mài chiêm nghiệm những
huy hoàng của thành Jerusalem cổ đại và Đền Solomon [14] ,
họ đã vẽ lên trong tâm trí mình một miền đất phì nhiêu hoành tráng –
“một quê hương tràn trề sữa tươi và mật ngọt”, như Kinh thánh mô tả.
Nhưng vào khoảng đầu thế kỉ 19, khi hàng chục người đầu tiên, rồi đến
hàng trăm người, và cuối cùng hàng ngàn người đi hành hương Đất thánh –
đồng thời thêm hàng triệu người đổ xô đến dự những buổi thuyết trình để
nghe tường thuật những chuyến đi này – người ta mới vỡ lẽ rằng chẳng có
chi đáng gọi là sửa tươi và mật ngọt; Palestine lúc bấy giờ chỉ là một
trong những tỉnh nghèo nàn nhất, lạc hậu nhất, tả tơi nhất của Đế quốc
Ottoman. Trước mắt người Mĩ, những sườn đồi và những cánh đồng sỏi đá
của vùng Judea trông rất thê lương, trống trải – khiến nhiều người tin
rằng Thiên Chúa đã rủa sả vùng đất này khi ngài đày dân Do Thái vào cuộc
lưu vong thứ hai, một cuộc lưu vong mà họ cho là hình phạt người Do
Thái phải gánh chịu vì không chịu nhìn nhận đức Ki-tô là đấng Cứu thế.
Và vì thế, nhiều người Mĩ tin tưởng, người Do Thái thuộc về Đất thánh và
Đất thánh phải thuộc về người Do Thái. Người Do Thái sẽ không bao giờ
cất đầu lên được bao lâu mà họ chưa về lại quê nhà, chưa được tự do, và
đất thánh sẽ không bao giờ đâm bông kết trái bao lâu mà những người chủ
chân chính của nó chưa trở về.
Ngôn
sứ Isaiah đã mô tả cuộc hồi hương tương lai của dân Do Thái là hồng ân
Thiên Chúa mang nước tưới lên sa mạc. Và nhiều người Mĩ đang chứng kiến
mầu mỡ của vùng đất này được phục hồi dưới bàn tay canh tác của những
người Xi-ôn-nít đầu tiên mới về lập nghiệp, họ chứng kiến với tất cả cảm
giác ngỡ ngàng là những điều tiên tri trong kinh thánh đang trở thành
hiện thực ngay trước mắt mình. “Những suối nguồn trong sức mạnh thực dân
Do Thái, được nuôi dưỡng hào phóng bằng đồng tiền của cộng đồng Do Thái
trên toàn thế giới, đang tuôn chảy tràn trề lên sa mạc”, tạp chí Time
đã viết như thế vào năm 1946, vang vọng ngôn ngữ của Tiên tri Isaiah.
Hai năm sau, tiếp theo thắng lợi của Do Thái trong cuộc chiến 1948, báo
Time lại mô tả dân Ả-rập bằng những từ ngữ khiến người đọc ngày nay phải
giật mình nhưng vào thời đó nó tiêu biểu cho cảm thức thông thường của
người Mĩ: “Thế giới phương Tây thường coi người Ả-rập như một chinh nhân
có đôi mắt diều hâu ngồi trên lưng ngựa trắng. Chàng Ả-rập ấy vẫn còn
lẫn khuất đâu đó, nhưng chàng thuộc về một thiểu số quá nhỏ nhoi so với
hạng khốn khó, mang đủ thứ bệnh hoạn trong người, đang nằm lây lất trên
những con lộ nóng, quá ốm yếu và bạc nhược tinh thần đến độ không còn
sức để lăn vào bóng mát.” Người Mĩ chứng kiến một cuộc đọ sức giữa một
dân tộc lạc hậu, yếu hèn và một dân tộc có khả năng lập nghiệp trên vùng
đất hoang dã và làm cho nó đâm bông kết trái, đang thần kì thể hiện
những lời tiên tri xa xưa về một quốc gia Do Thái.
Trước
đó, một cách khá phổ biến, người Do Thái bị coi là khối dân đáng chê
trách nhất ở đông Âu: dốt nát, sa đọa, mê tín, chia bè chia phái, hay
gây gỗ, và lạc hậu hết thuốc chữa. Sự thể đám dân này, sau khi chịu đựng
bao nhiêu dã man chưa từng có dưới sự đàn áp của Đức quốc xã, đã thiết
lập được một chế độ dân chủ ổn định đầu tiên ở Trung Đông, xây dựng được
một nền kinh tế thịnh vượng trong sa mạc và liên tục đánh bại những kẻ
thù có đội quân lớn mạnh hơn mình nhiều lần, đối với nhiều người Mĩ là
bằng chứng lịch sử hùng hồn về những lí tưởng tôn giáo mà họ ấp ủ sâu xa
nhất.
Bước ngoặt hữu khuynh
Mặc
dù sự hậu thuẫn của dân ngoại Do Mĩ dành cho Israel vẫn còn mạnh và
thậm chí gia tăng kể từ Thế chiến II, nhưng tính chất của hậu thuẫn này
đã thay đổi. Mãi cho đến Cuộc Chiến Sáu Ngày, phần lớn hậu thuẫn dành
cho Israel đến từ giới chính trị tả khuynh và thường thì phe Dân chủ ủng
hộ Israel mạnh hơn phe Cộng hòa. Các thần tượng phóng khoáng như
Eleanor Roosevelt, Paul Tillich, Reinhold Niebuhr, và Martin Luther
King, Jr., đều là những tiếng nói công khai hàng đầu kêu gọi Hoa Kì ủng
hộ Israel. Nhưng kể từ 1967, hậu thuẫn của cánh tả dành cho Israel dần
dần suy giảm trong khi hậu thuẫn của phe bảo thủ lại gia tăng.
Nhiều
yếu tố khác nhau đã hội tụ lại trong thập niên 1940 để biến chủ nghĩa
Xi-ôn-nít ngoại Do tiến bộ (progressive gentile Zionism) thành một thế
lực mạnh trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì, nhất là bên cánh tả. Một
là, cuộc tàn sát người Do Thái do bàn tay của Đức quốc xã trong Thế
chiến II gây chấn động phi thường lên tín đồ Tin Lành Mĩ. Trước đó nước
Đức đã có một thời cung ứng lãnh đạo tinh thần cho giáo hội Tin Lành Mĩ,
và vì thế thái độ thụ động chấp nhận mà các hầu hết nhà thờ và mục sư
Tin Lành Đức dành cho chế độ Quốc xã đã gây sốc đến tận cốt lõi cho toàn
khối Tin Lành chính mạch tại Mĩ. Những tín đồ Tin Lành Đức chống chế độ
Quốc xã đã trở thành những vị anh hùng đạo lí và thần học tại Hoa Kì
thời hậu chiến, đồng thời thái độ chống đối chủ nghĩa bài Do Thái
(anti-Semitism) trở thành một thử nghiệm then chốt mà các tín đồ Tin
Lành chính mạch Mĩ dùng để đánh giá bản thân và các nhà lãnh đạo. Cơn
sốc sâu đậm này đã mạnh mẽ thúc đẩy họ hưởng ứng cứu trợ nhân đạo trước
những phát hiện về các lò sát sinh và các cuộc tàn sát tập thể. Nỗi
thống khổ của người Do Thái tị nạn, vừa li tán vừa đói nghèo trong một
châu Âu hỗn loạn thời hậu chiến, đã khiến điều sau đây trở thành tất
yếu: tín đồ Tin Lành Mĩ, sau một thế kỉ vận động đòi quyền sống cho dân
Do Thái, sẽ nhiệt tình hậu thuẫn những bước phát triển mà họ cho là có
thể đảm bảo an toàn cho người Do Thái châu Âu.
Yếu
tố thứ hai là hậu thuẫn mạnh mẽ của người Mĩ gốc châu Phi (African
Americans) dành cho người Do Thái vào một thời điểm mà dân da đen bắt
đầu đóng một vai trò to lớn hơn trong sinh hoạt chính trị tuyển cử của
Hoa Kì. Suốt thập niên 1930, báo chí của người Mĩ gốc châu Phi đã chăm
chú theo dõi việc Hitler áp đặt những chính sách phân biệt chủng tộc.
Các lãnh đạo Mĩ gốc châu Phi không để lỡ cơ hội vạch ra những điểm tương
đồng giữa việc Hitler đối xử với người Do Thái và những luật phân chủng
Jim Crow áp dụng tại miền nam Hoa Kì. [15] Đối
với nhiều người Mĩ gốc châu Phi, bằng kinh nghiệm bản thân hằng ngày,
họ cảm nhận một cách sống động, hiện thực, cảnh đàn áp mà người Do Thái
phải chịu đựng. Sự đàn áp này cũng cung ứng cho họ những luận điểm quan
trọng để thuyết phục người da trắng rằng kì thị chủng tộc là vi phạm
những nguyên tắc đạo lí của Mĩ và vì thế sự đàn áp người Do Thái ở châu
Âu đã đưa đến việc xây dựng một liên minh vững mạnh giữa người Do Thái
tại Mĩ và phong trào dân quyền [của người da màu], một liên minh tồn tại
từ năm 1945 đến cuối đời Martin Luther King. Ngay cả trong Thế chiến
II, các nhà tranh đấu da đen W.E.B. Du Bois, Zora Neale Hurston,
Langston Hughes, và Philip Randolph đã ủng hộ tiền thân (precursor) của
đảng Likud trong nỗ lực thành lập một quân đội DoThái. Nhà lãnh đạo dân
quyền Adam Clayton Powell, Jr., còn đi xa hơn, quyên góp đến 150.000
đôla cho tổ chức Xi-ôn-nit chủ chiến Irgun Zvai Leumi – mà ông gọi là
“một tổ chức khủng bố bí mật tại Palestine” – trong một cuộc mit-ting
tại Thành phố New York.
Sự
ủng hộ của Liên Xô đối với một quốc gia Israel độc lập cũng giúp phần
nào. Ở Yalta, Joseph Stalin đã nói với Franklin Roosevelt rằng bản thân
ông ta cũng là một người Xi-ôn-nit. Vào tháng Năm 1947, Bộ trưởng Ngoại
giao Xô-viết Andrei Gromyko tuyên bố trước Liên hiệp quốc rằng Liên xô
ủng hộ việc thành lập một quốc gia Do Thái. Hậu thuẫn này, dù có ngắn
ngủi chăng nữa, đã củng cố quan điểm của nhiều người Mĩ bên cánh tả,
rằng việc thành lập một quê hương cho người Do Thái là một phần của cuộc
đấu tranh chung cho tiến bộ trên toàn thế giới. Thật ra, trong những
thập niên sau thế chiến, nhiều người Mĩ phóng khoáng (American liberals)
đã coi việc hậu thuẫn Israel là một phần đóng góp của họ cho chế độ tự
do, cho phong trào giải thực (vì người Do Thái ở Palestine cũng đang đòi
độc lập bất chấp sự phản đối của Anh Quốc), cho cuộc đấu tranh chống kì
thị chủng tộc và tôn giáo, cho chủ nghĩa thế tục, cho chủ nghĩa nhân
đạo, và cho truyền thống tiến bộ trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì.
Lúc bấy giờ trong mắt của nhiều người, nước Israel xuất hiện như một thí
nghiệm thế tục đầy tính lí tưởng của chế độ dân chủ xã hội (social
democracy). Cả người Do Thái Mĩ cũng như người dân ngoại Do Mĩ cùng nhau
sang tận Israel để thể nghiệm cuộc sống hân hoan, tham gia lao động và
sinh hoạt tập thể tại những trang trại công (kibbutz) của các khu định
cư. Vì thế, vào năm 1948, khi Truman quyết định hậu thuẫn việc thành lập
nước Israel, ông ta không chỉ nghĩ đến lá phiếu của người Do Thái mà
thôi. Hậu thuẫn mà Hoa Kì dành cho Israel cũng được lòng người dân da
đen miền Bắc, những người được thu hút đến với đảng Dân Chủ nhờ chính
sách New Deal [16]và
việc Truman từng bước tiến đến hậu thuẫn cho dân quyền. Sự hậu thuẫn
cho nước Israel cũng giúp Truman tranh thủ được nhiều cử tri cánh tả,
những người mà nếu không vì lợi ích của Israel có thể đã ủng hộ Henry
Wallace và đảng Tiến bộ. Ngọn cờ hậu thuẫn Israel cũng giúp Truman giành
phiếu của cử tri miền nam bảo thủ, những cử tri đi nhà thờ, đọc kinh
thánh, và nhờ thế tăng cường khả năng chống lại ảnh hưởng của cánh Dân
chủ miền nam (Dixiecrats) của Strom Thurmond. Quả thật, hậu thuẫn dành
cho Israel là một trong những chủ điểm hiếm hoi còn lại để giữ được liên
minh vốn đã bị nức rạn của đảng Dân chủ.
Tuy
nhiên, kể từ cuộc chiến 1967, cơ sở của sự ủng hộ dành cho Israel tại
Hoa Kì đã chuyển dịch: hậu thuẫn cho Israel có khuynh hướng giảm dần bên
cánh tả và gia tăng bên cánh hữu. Bên cánh tả, sự bất mãn đều khắp đối
với những chính sách của Israel trong các vùng đất bị chiếm đóng cùng
với mối quan tâm ngày một giảm đối với an ninh của nước này, theo sau
thắng lợi của nó trong cuộc chiến, đã khiến nhiều người Mĩ gốc châu Phi,
nhiều tín đồ Tin Lành chính mạch, nhiều trí thức phóng khoáng, những
người một thời từng là đồng minh vững chắc của Israel tại Mĩ, chuyển
sang ngày càng có cảm tình với quan điểm của người Pa-let-tin. Ngoài ra,
sự đồng cảm ngày một gia tăng của người da đen đối với các phong trào
chống thực dân khắp thế giới, sự hao mòn của liên minh da đen-Do Thái
trong chính trị nội bộ Mĩ, và thanh thế đang lên của các nhân vật như
Malcolm X và các lãnh đạo của tổ chức Nước Hồi Giáo (Nation of Islam)
cũng dần dần làm suy giảm sự hậu thuẫn của dân Mĩ gốc châu Phi dành cho
Israel. Về phần mình, những giáo phái Tin Lành cởi mở bắt đầu tiếp thu
quan điểm của những nhà truyền giáo có thiện cảm với chủ nghĩa dân tộc
Ả-rập; đồng thời, khi các giáo phái chính mạch càng ngày càng chỉ trích
những quan niệm truyền thống Mĩ về bản sắc và định mệnh quốc gia của Hoa
Kì, những tín đồ cởi mở này cũng tránh xa lối tiếp cận Cựu ước truyền
thống. (Mặc khác, quan hệ giữa người Công giáo Mĩ và người Do Thái bắt
đầu cải thiện sau cuộc chiến 1967, chủ yếu nhờ cách tiếp cận với người
Do Thái theo quan điểm thần học mới của Giáo hội Công giáo kể từ Công
đồng Va-ti-ca-nô II. [17] )
Bên
cánh hữu, thay đổi nổi bật nhất kể từ 1967 là sự gia tăng đột biến hậu
thuẫn dành cho Israel trong giới Ki-tô giáo Tin Lành (evangelical
Christians)[18] và, tổng quát hơn, trong hàng ngũ những thành phần mà tôi từng gọi là cử tri “có tính chất Andrew Jackson [19] ” (Jacksonians) ở vùng đại bình nguyên giữa bờ Đông và bờ Tây nước Mĩ. Jacksonians là những cử tri bình dân-quốc gia chủ nghĩa [20] (populist-nationalist),
họ ủng hộ một quân đội hùng mạnh và thông thường không mấy tin tưởng
các tổ chức quốc tế và viện trợ nhân đạo toàn cầu. Không phải tất cả mọi
tín đồ Tin Lành đều là Jacksonians, và không phải tất cả Jacksonians đều là người Tin Lành, nhưng có một số người nhất định thuộc về cả hai nhóm cử tri này. Nhiều người da trắng miền nam làJacksonians;
nhiều cử tri không kiên định lập trường đảng phái ở miền Bắc, còn gọi
là những người Dân chủ ủng hộ Reagan (Reagan Democrats), cũng làJacksonians.
Nhiều Jacksonians đã
có định kiến tiêu cực về người Ả-rập từ thời Chiến tranh lạnh. Họ nhận
thấy, dân Pa-lét-tin và các quốc gia Ả-rập thường đứng về phía Liên xô
và Phong trào phi-liên kết để chống lại Hoa Kì. Người Ai-Cập đáp lại hậu
thuẫn của Hoa Kì trong vụ khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956 bằng cách
quay sang phía Xô-viết để mua vũ khí và tìm hậu thuẫn, đồng thời chuyên
viên Xô-viết và vũ khí Xô-viết đã giúp các đội quân Á-râp chuẩn bị các
cuộc chiến chống Israel. Các Jacksonians có
khuynh hướng nhìn các biến động quốc tế theo lăng kính độc đáo của
mình. Cùng với các biến động diễn ra ở Trung Đông từ năm 1967, họ ngày
càng có nhiều cảm tình với Israel ngay cả khi nhiều thành phần khác của
xã hội Mĩ – và thêm nhiều người nữa ở những vùng khác trên thế giới –
ngày càng mất đi cảm tình đối với Israel. Cuộc Chiến Sáu Ngày (the
Six-Day War) đã nhen nhúm lại mối quan tâm của những người Xi-ôn-nit
tiên tri đối với Israel và, theo cách nhìn của nhiều Jacksonians, cuộc chiến này đã tăng cường những quan hệ sâu sắc giữa Israel và Hoa Kì. Sau thời Chiến tranh lạnh, những người Jacksonian nhận
thấy rằng những quốc gia thù nghịch của Mĩ ở trong vùng, như Iraq và
Iran, đồng thời cũng là những kẻ thù hung hăng nhất của Israel.
Những người Jacksonian chiêm
ngưỡng chiến công và chiến thắng hoàn toàn là chiến công đẹp nhất.
Chiến thắng hoàn toàn, với sức mạnh áp đảo của các binh chủng Israel năm
1967 trước kẻ thù có quân số lớn hơn đến từ ba nước khác nhau là điều
mà Jacksonians rất mơ ước – nhất là vào một thời điểm mà khả năng chiến đấu yếu kém của Hoa Kì tại Việt Nam đã khiến nhiềuJacksonians đâm
ra bi quan về tương lai của quốc gia mình. Kể từ đó, chính một số hành
động quân sự đã làm tổn thương uy tín của Israel đối với hầu hết các
nước trên thế giới – chẳng hạn những phản ứng quá đáng đối với quân
khủng bố Pa-let-tin – lại gia tăng hậu thuẫn cho quốc gia này từ phíaJacksonians.
Đôi
khi chỉ vài đạn pháo từ dải Gaza bắn vào lãnh thổ Israel, quân đội
Israel lại phản ứng bằng một hoả lực mạnh hơn, gây nhiều đổ nác và nhiều
thương vong hơn. Trong con mắt của phần lớn thế giới, đây là sự trả đũa
quá đáng, một vi phạm tương đương hay thậm chí nghiêm trọng hơn cuộc
tấn công của kẻ gân hấn. Thế nhưng, Jacksonians coi
mỗi loạt pháo kích của người Pa-lét-tin nhắm vào các mục tiêu ở Israel
là một hành động khủng bố và họ cho rằng người Israel có toàn quyền,
thậm chí có nghĩa vụ, trả đũa bằng tất cả sức mạnh có thể huy động được.
Kể từ thập niên 1950, cứ mỗi lần quân đặc công Palestine lẻn qua đường
ngưng bắn để tấn công các khu định cư của Israel, nhiều người Pa-lét-tin
và người Ả-rập lại biện minh rằng những cuộc đột nhập này là hành động
rất can đảm mặc dù phải đối đầu với một hoả lực dữ dội, trấn áp. Nhưng
những vụ đột kích nhắm vào các mục tiêu dân sự, và nhất là các vụ tấn
công dùng bom tự sát, lại vi phạm các nguyên tắc Jacksonian cơ bản về phương thức tiến hành một cuộc chiến văn minh. Những ngườiJacksonian cho
rằng chỉ có một sự trả đủa trấn ác và triệt để chống lại các chiến
thuật như thế mới chận đứng việc đặc công đánh phá thêm nữa. Đây là cách
người Mĩ sống ở vùng biên đã đối phó với người da đỏ, là cách mà tướng
Liên bang [miền Bắc] William Sherman “đã dạy một bài học” cho quân dân
miền Nam trong Nội chiến Mĩ, và cũng là cách tướng Douglas MacArthur và
Truman đã trả lại cho người Nhật món nợ Pearl Harbor. Những ngườiJacksonian thực
tình không hiểu được vì sao thế giới lại chỉ trích Israel vì đã hành sử
điều mà họ cho là quyền tự vệ không khoan nhượng – vì đã làm đúng những
điều mà chính họ cũng phải làm nếu ở vào vị trí của Israel.
Theo
quan điểm của người Pa-lét-tin và những người hậu thuẫn họ, người
Pa-lét-tin – bị lưu vong, bị cho ra rìa, bị chiếm đóng, bị chia rẽ – là
những người yếu thế nhưng anh hùng, dám đương đầu với một siêu cường
trong vùng, mà siêu cường này lại được hậu thuẫn của một nước mạnh nhất
thế giới. Nhưng theo quan điểm Jacksonian,
Israel, dù với tất cả sức mạnh và chiến công của mình, vẫn chỉ là cậu
bé David đang lâm nguy, “tứ bề thọ địch”. Sự thể người Ả-rập và toàn thể
cộng đồng gồm một tỉ tín đồ Hồi giáo hậu thuẫn chính nghĩa của người
Pa-lét-tin, chí ít bằng khẩu hiệu, đã khiến những người Jacksoniancàng
tin thêm rằng Israel là một nước nhỏ bé và đang lâm nguy, đáng được
giúp đỡ. Bẽ bàng là, một số thành công quân sự chính trị to lớn nhất của
phong trào Pa-let-tin – như triển khai một cuộc kháng chiến võ trang
năng động, giành được hậu thuẫn (phần lớn chỉ là khẩu khí) từ các tổ
chức như Liên minh Ả-rập và ngay cả Đại hội đồng Liên hiệp quốc, chuyển
dịch cơ sở chính trị của cuộc kháng chiến Pa-let-tin từ chủ nghĩa dân
tộc thế tục (secular nationalism) sang lãnh vực tôn giáo, và giành được
hậu thuẫn của các nước mạnh trong vùng như Iraq dưới thời Saddam và Iran
ngày nay – rốt cuộc mang lại hậu quả là những thành công này chỉ tăng
cường cũng cố thêm sự hậu thuẫn của người dân ngoại Do Mĩ cho quốc gia
Do Thái.
Tình huynh đệ Ki-tô giáo
Một
yếu tố quan trọng khác dẫn đến việc người Mĩ gia tăng hậu thuẫn cho
Israel là, kể từ 1967 một loạt phong trào gây lại niềm tin tôn giáo diễn
ra đều khắp nước Mĩ, mang lại những hậu quả quan trọng trong thái độ
của dân chúng đối với vùng Trung Đông. Một hậu quả là, trong khi các
giáo phái Tin Lành chính mạch cởi mở chỉ trích Israel nhiều hơn, họ đánh
mất luôn ảnh hưởng chính trị và xã hội của chính mình. Một hậu quả khác
là, vai trò của chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionism) tăng
lên đáng kể, với sự kiện tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống [21] Mĩ
hiện nay quan tâm hơn bao giờ cả về những lời tiên tri trong kinh thánh
và về vai trò của Israel trên quá trình dẫn đến sự khải huyền [tận
thế].
Nhiều
tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống đã không mấy quan tâm đến
Israel sau cuộc chiến giành độc lập của nước này. Theo chỗ họ hiểu,
những lời tiên tri trong kinh thánh rõ ràng dự kiến người Do Thái sẽ xây
lại Ngôi đền trên vị trí cũ của nó; vì thế họ suy diễn, khi những vị
trí thiêng liêng của Jerusalem vẫn còn nằm trong tay người Ả-rập, thì
tiến trình dẫn đến ngày tận thế có vẻ đã chậm lại. Trong khi đó, nước
Israel thế tục và gần như xã hội chủ nghĩa trong thập niên 1950 ít lôi
cuốn người Ki-tô giáo bảo thủ hơn lôi cuốn người Ki-tô giáo cởi mở. Vì
phải để mắt vào mối đe dọa cộng sản trong những năm cao điểm của Chiến
tranh lạnh, tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống ít tích cực tham
gia vào chính sách Mĩ ở Trung Đông như họ đã từng tham gia vào thế kỉ
19.
Cuộc
chiến Sáu ngày đã thay đổi thái độ đó; nó là lực xúc tác cho phong trào
phục hoạt phúc âm và tiếp sức cho chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri. Tính
chớp nhoáng và tính quyết định của thắng lợi mà Israel đạt được là một
phép lạ trong mắt của nhiều người Mĩ; Israel chiếm được Thành cổ (the
Old City), điều này có nghĩa là vị trí của Ngôi đền đã về tay người Do
Thái. Cảm thức ngày tận thế đang tới gần là một lực tác động mạnh mẽ cho
làn sóng phục hoạt tôn giáo tại Mĩ, một phong trào được khởi động trong
giai đoạn này. Kể từ đó đến nay, một loạt sách truyện thuộc loại bán
chạy nhất, hư cấu cũng như phi-hư cấu, đã nhắm vào sở thích của hàng
triệu người Mĩ trong khả năng là ngày tận thế đang triển khai tại Trung
Đông, như đã được các ngôn sứ tiên tri trong Cựu ước và Tân ước.
Từ
khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, thêm một lực tác động nữa đã tăng cường
những quan hệ giữa quốc gia Israel và nhiều người Ki tô giáo bảo thủ của
Mĩ. Khi cuộc phục hưng tôn giáo mang lại sức mạnh và sinh lực mới cho
các giáo hội Tin Lành và chính thống, họ lại càng quan tâm nhiều hơn đến
thế giới bên ngoài. Trong quá khứ những cuộc phục hưng tôn giáo như thế
đã dẫn đến các cao trào truyền giáo đầy nhiệt tình và rất năng động;
cuộc phục hưng tôn giáo hiện nay không khác bao nhiêu. Và khi người
Ki-tô giáo Mĩ đã quan tâm nhiều hơn đến an sinh của Ki-tô hữu khắp thế
giới, họ đã gặp phải địch thủ quan trọng nhất của Ki-tô giáo toàn cầu,
đó là Hồi giáo, và họ bắt đầu nhận chân rằng tình cảnh của người Ki-tô
giáo tại một số nước có đa số theo Hồi giáo không được khả quan cho lắm.
Mối
quan tâm về người Ki-tô giáo bị bách hại khắp thế giới là nét đặc trưng
trường kì của Ki-tô giáo, và điều này không phải chỉ riêng ở Mĩ mới có.
Trong quá khứ, chính những nhà lãnh đạo các giáo hội từng tham gia các
nỗ lực bảo vệ người Do Thái ở châu Âu và Đế quốc Ottoman thường cũng là
những người tham gia các chiến dịch bảo vệ các tín đồ Ki-tô giáo tại
Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật bản, và Đế quốc Ottaman cùng các nơi khác
trên thế giới. Phong trào cộng sản, được coi như kẻ thù hung bạo nhất
của tôn giáo trong thế kỉ 20, nhiên hậu đã thúc đẩy tín đồ Ki-tô giáo Mĩ
xây dựng những tổ chức nhằm hậu thuẫn các tín hữu ở sau Bức màn sắt. Từ
năm 1989, sự bách hại tín đồ Ki-tô giáo do bàn tay cộng sản đã giảm
nhiều (mặc dù chưa biến mất), và nhờ vậy càng ngày trọng tâm của mối
quan ngại càng chuyển qua Trung Đông, nơi nhiều tín đồ Ki-tố giáo và tín
đồ của các đức tin khác hay người không theo tôn giáo nào hiện bị phân
biệt đối xử về mặt xã hội và pháp lí – và cũng là nơi, lắm khi tín đồ
Ki-tô giáo bị đánh đập và sát hại vì đức tin của mình. Luật pháp của
nhiều nước Hồi giáo còn cấm truyền đạo và cải đạo – những vấn đề chiếm
được quan tâm sâu sắc nhất của người Ki-tô rao giảng Phúc âm
(evangelical Christians), những người tin rằng kẻ nào đến phút lâm chung
mà chưa tiếp nhận Đức Ki-tô vào lòng thì sẽ chịu cực hình trong hoả
ngục và rằng sự nghiệp truyền bá đức tin Ki-tô giáo là một trong những
nghĩa vụ đạo lí trung tâm. Những cơ quan truyền thông chính mạch của Mĩ
thường không coi nạn bách hại các tín đồ Ki-tô giáo ở nước ngoài là
trọng tâm chính cho việc đưa tin của họ, nhưng sự thờ ơ này không ngăn
cản được vấn đề tôn giáo ảnh hưởng lên quan điểm của nhiều người Mĩ đối
với Hồi giáo và, nói rộng ra, đối với cuộc xung đột giữa Israel với một
số nước láng giềng.
Dư
luận tại Hoa Kì về vấn đề Trung Đông không phải là một khối thuần nhất,
cũng không phải bất di bất dịch qua thời gian. Từ 1967 đến nay, nó đã
kinh qua nhiều chuyển dịch, một số tổ chức hoặc nhóm cử tri trở nên
thiện cảm hơn với Israel và một số khác thì ngược lại. Càng ngày người
Mĩ gốc châu Phi càng ít ủng hộ đảng Likud hiện nay hơn họ đã từng hậu
thuẫn quân đội Do Thái trong Thế chiến II. Thêm nhiều thay đổi có thể
xảy ra. Một giới lãnh đạo Pa-let-tin và Ả-rập nhạy cảm hơn đối với những
giá trị và những ưu tiên chính trị của nền văn hóa chính trị Mĩ có thể
đã phát triển được những chiến thuật mới mẻ và hiệu quả hơn nhằm làm suy
yếu, thay vì tăng cường, hậu thuẫn của Mĩ dành cho quốc gia Do Thái.
Chẳng hạn, nếu chịu chấm dứt những cuộc tấn công khủng bố để tiến hành
một cuộc đấu tranh dân sự bất bạo động có kĩ luật và có tổ chức, họ có
thể đã thay đổi được cách nhìn của những ngườiJacksonian về
cuộc tranh đấu của người Pa-let-tin. Một khả năng hoàn toàn có thể xảy
ra là, dần dà qua thời gian những tín đồ Tin Lành-chính thống Mĩ sẽ theo
bước chân của Jimmy Carter, khi ông ta đi từ một chủ nghĩa Xi-ôn-nít
trẻ trung đến một lập trường mà ông cho là quân bình hơn như hiện nay.
Nhưng nếu Israel phải đối đầu với bất cứ một cuộc khủng hoảng nghiêm
trọng nào, dư luận Mĩ sẽ chuyển hướng ngược lại, và đây có vẻ là một khả
năng còn lớn hơn. Nhiều thành phần trong số những người Mĩ ngày nay kêu
gọi một chính sách quân bình hơn đối với người Pa-lét-tin, sở dĩ làm
như vậy, là vì họ tin rằng trên cơ bản Israel đã được an ninh. Nếu một
lúc nào đó thẩm định này thay đổi, những cuộc thăm dò dư luận quần chúng
rất có thể sẽ chứng tỏ mức độ hậu thuẫn của Mĩ dành cho Israel còn cao
hơn hiện nay.
Chí
ít có một điều gần như hiển nhiên. Trong tương lai cũng như trong quá
khứ, dù có tốt hơn hoặc xấu hơn, chính sách ngoại giao của Hoa Kì đối
với Trung Đông vẫn tiếp tục được hình thành bởi ý chí của đại đa số dân
Mĩ, chứ không bởi những thủ thuật hay mưu mô của bất cứ nhóm thiểu số
nào, dù một số thành viên của nhóm này có giàu có hay tích cực tham gia
vào tiến trình chính trị đến thế mấy đi nữa.
**
Walter
Russell Mead là chuyên viên cấp cao trong chương trình Henry A.
Kissinger về Chính sách đối ngoại Hoa Kì ở Hội đồng nghiên cứu Quan hệ
đối ngoại và, gần đây nhất, là tác giả của cuốn God and Gold:
Britain, America, and the Making of the Modern World (Chúa và Vàng: Anh,
Mĩ và Sự hình thành của Thế giới Ngày nay).
Nguồn: Walter Russell Mead, “The New Israel and the Old: Why Gentile Americans Back the Jewish State?”, Foreign Affairs, July/August 2008.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét