Hiệu đính: Bùi Hải Thiêm
Liệu dân chủ có thực sự đáng bận tâm? Liệu nó có mở đường
cho cải tiến trong các lĩnh vực khác của đời sống ngoài những lĩnh vực liên
quan chặt chẽ với tự do chính trị? Đối với nhân dân các nước hiện đang trải qua
thời kỳ quá độ sang nền chính trị dân chủ hơn, vấn đề này cực kỳ quan trọng.
Trong chương này chúng ta sẽ nghiên cứu những hệ quả của dân chủ đối với việc
phát triển kinh tế, được định nghĩa là tăng trưởng và phúc lợi xã hội. Mối quan
hệ giữa dân chủ và nhân quyền cũng sẽ được xem xét. Trong khi dân chủ được coi
là một biến phụ thuộc trong Chương 2 khi chúng ta tìm kiếm những điều kiện thuận
lợi để nền dân chủ trỗi dậy, trong chương này nó lại được coi là một biến độc lập,
khi chúng ta xét ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế. Chúng ta sẽ xem
xét câu hỏi liệu dân chủ, một khi đã đạt được, có khả năng đáp ứng kỳ vọng cải
thiện thành tích về tăng trưởng kinh tế và phúc lợi hay không.
Những học giả đã đề cập đến vấn đề này không phải ai cũng lạc
quan; một số người thậm chí thấy đây là sự đánh đổi (trade-off) giữa một bên là
nền dân chủ chính trị với bên kia là phát triển kinh tế. Chương này sẽ phác thảo
những điểm chính trong cuộc tranh luận lý thuyết, và khảo sát các nghiên cứu thực
nghiệm về vấn đề này.1 Tôi bác bỏ quan niệm về một sự đánh đổi chung chung giữa
dân chủ và phát triển kinh tế, và tôi sẽ chứng minh tại sao phát triển kinh tế
và cải thiện phúc lợi không nhất thiết sẽ tự khắc đến với những nền dân chủ mới.
Cuộc tranh luận về dân chủ và phát triển
Nhiều học giả thấy dân chủ không tương thích với tăng trưởng
kinh tế về cả hai lý do kinh tế và chính trị. Các lý do kinh tế liên quan đến một
thực tế là tăng trưởng đòi hỏi phải có thặng dư kinh tế cho đầu tư. Thặng dư
này có thể được đem đầu tư hoặc tiêu dùng. Do đó cách duy nhất để gia tăng thặng
dư cho đầu tư là giảm tiêu dùng. Lập luận ở đây là một thể chế dân chủ sẽ không
thể theo đuổi các chính sách kiềm chế tiêu dùng (kìm giữ tiền lương thực tế ở mức thấp) bởi vì người tiêu dùng cũng là
các cử tri, và họ sẽ trừng phạt các chính trị gia tại các thùng phiếu bầu ngay
khi có cơ hội. Do vậy, trong một hệ thống dân chủ, các nhà lãnh đạo chính trị
phải phục vụ cho những nhu cầu ngắn hạn của người dân. Theo lời một nhà kinh tế
Ấn Độ: “Trong một chế độ mà các nhà lập pháp . . . tìm kiếm sự tán đồng của cử
tri, nhà chính trị không thể. . . theo đuổi bất kỳ chính sách nào không mang lại
lợi ích hữu hình cho các cử tri vào thời điểm cuộc bầu cử tiếp theo sắp đến gần.”2
Theo đó, không có sự hòa hợp trong ngắn hạn và trung hạn giữa
tăng trưởng kinh tế (đầu tư) và phúc lợi (tiêu dùng): Không thể vừa giữ cái
bánh mà lại vừa ăn nó. Những người có những ngờ vực (reservations) kinh tế về
thể chế dân chủ xoáy vào khuynh hướng là các nhà lãnh đạo dân chủ bị cử tri
thuyết phục tăng cường quá nhiều phúc lợi và hậu quả là tăng trưởng quá ít.
Hành động của họ gây nguy hiểm cho toàn bộ cơ sở để thúc đẩy phúc lợi về lâu
dài.
Những người có những ngờ vực chính trị về dân chủ lấy thực tế
làm điểm xuất phát rằng phát triển kinh tế được thúc đẩy tốt nhất khi có trật tự
và ổn định chính trị cao độ.3 Về khía cạnh này dân chủ là phản tác dụng bởi vì
nó phơi bày các thể chế vốn đã yếu kém của các nước đang phát triển trước sức
ép từ các nhóm khác nhau trong xã hội. Hậu quả là bất ổn và rối loạn, đặc biệt
là ở những nước tiềm ẩn nguy cơ cao về xung đột bắt nguồn từ vô số những chia rẽ
về tôn giáo, sắc tộc, vùng miền và giai cấp. Những chính sách thay đổi nhằm thúc
đẩy phát triển đất nước trong dài hạn có thể được đẩy mạnh tốt nhất bởi các
chính phủ, khi họ được cách ly khỏi những sức ép chính trị đan xen nhau của một
chính thể dân chủ. Theo nghĩa đó, chủ nghĩa chuyên chế (authoritarianism) là
thích hợp nhất để thúc đẩy thay đổi.4
Một lập luận khác mà các học giả đưa ra nhằm chứng tỏ nền thống
trị chuyên chế (authoritarian rule) thích hợp hơn dân chủ trong việc thúc đẩy
phát triển kinh tế dựa trên cơ sở thực tế rằng ngày càng có nhiều bất lợi đối với
việc thúc đẩy phát triển thành công, và do vậy theo thời gian càng bức bách đòi
hỏi hành động toàn diện của nhà nước để thúc đẩy phát triển. Thị trường thế giới
ngày càng cạnh tranh nhiều hơn và đòi hỏi cấp thiết phát triển trong nước cao
hơn so với trường hợp khi các nước công nghiệp phương Tây trải qua các giai đoạn
phát triển ban đầu. Thực sự là, các quá trình phát triển lúc đó và bây giờ khác
nhau về chất. Và trong thế kỷ này không có trường hợp nào phát triển kinh tế
thành công mà không có hành động chính trị toàn diện kéo theo sự can thiệp sâu
rộng của nhà nước vào nền kinh tế. Hành động phối hợp của nhà nước như vậy là rất
khó, nếu không phải là không thể, trong những điều kiện dân chủ.5
Nhiệm vụ xây dựng đất nước hiện nay thực sự là quá khó khăn.
“Gần như không thể tưởng tượng quá trình này có thể được giải quyết như thế nào
mà không cần đến chế độ độc tài (dictatorship)”, một học giả đã phải kêu lên,
và lời phát biểu của ông đã tóm gọn rõ nét ý kiến của những người nhìn thấy sự
không tương thích giữa dân chủ và phát triển kinh tế.6 Đồng thời, cần phải nhấn
mạnh rằng sự đánh đổi là tạm thời. Trật tự chính trị và thẩm quyền chính phủ là
cần thiết trong những giai đoạn khó khăn ban đầu của phát triển kinh tế. Sự
tham gia (chính trị) và phân phối (phúc lợi) chỉ trở nên thích hợp ở giai đoạn
sau. Quan điểm này đã được Gabriel Almond và G. Bingham Powell tóm tắt rành mạch:
“Xây dựng nhà nước và xây dựng nền kinh tế trước khi thực hiện tham gia chính
trị và phân phối vật chất là hợp logic, bởi vì chia sẻ quyền lực và chia sẻ
phúc lợi phụ thuộc vào việc có quyền lực và có phúc lợi để mà chia sẻ.”7
Những người chỉ trích quan điểm cho rằng có sự đánh đổi giữa
dân chủ và tăng trưởng kinh tế phản đối lại tất cả các lý lẽ nêu trên. Họ phản
bác lại lập luận kinh tế về việc dân chủ làm tổn hại đến tăng trưởng như sau. Mặc
dù sự thực là một khoản thặng dư kinh tế nhất định có thể hoặc là được đem đi đầu
tư hoặc là được chi tiêu chứ không phải cả hai, vấn đề dường như không đơn giản
khi kết luận rằng như vậy là có mâu thuẫn gay gắt giữa tăng trưởng và phúc lợi.
Ví dụ, chi tiêu công trong các lĩnh vực như y tế và giáo dục được coi là đầu tư
vào vốn con người, việc này đồng thời cải thiện phúc lợi cho số đông dân chúng.
Thật vậy, nhiều nhà kinh tế ủng hộ chiến lược phát triển nhấn mạnh vào những
nhu cầu cơ bản của con người bởi vì trong lĩnh vực đó có thể đồng thời vừa có
tăng trưởng vừa có phúc lợi.8 Nếu chúng ta có thể đồng thời vừa tăng trưởng vừa
có phúc lợi, lập luận thiên về ủng hộ chủ nghĩa chuyên chế với lý do dân chủ có
xu hướng tăng cường phúc lợi quá nhiều sẽ bị suy yếu nghiêm trọng. Quả thực, sự
lựa chọn có thể không phải là giữa tăng trưởng và phúc lợi mà là giữa hai dạng
chính sách đầu tư khác nhau—một dạng ủng hộ phúc lợi và một dạng thì không. Và
có thể lập luận rằng một chính phủ dân chủ có nhiều khả năng đẩy mạnh chính
sách ủng hộ phúc lợi còn một chính phủ chuyên chế thì có chính sách không ủng hộ
phúc lợi.
Tiếp theo, những người chỉ trích đã xoay ngược lập luận cho
rằng dân chủ không thể đảm bảo trật tự và ổn định bằng cách chỉ ra rằng chủ
nghĩa chuyên chế có thể đồng nghĩa với cai trị độc đoán và can thiệp quá mức
vào công việc của công dân. Chỉ dân chủ mới có thể tạo ra môi trường có khả
năng dự báo trước mà trong đó kinh tế có thể phát triển thịnh vượng. Hơn nữa, đa
nguyên chính trị và đa nguyên kinh tế củng cố lẫn nhau. Nếu không có các quyền
tự do cơ bản về dân sự và chính trị, các công dân sẽ cảm thấy bất an để theo đuổi
các mục tiêu kinh tế.10 Theo nghĩa đó, giữa dân chủ và phát triển kinh tế có mối
quan hệ hỗ trợ lẫn nhau.
Cuối cùng là lập luận
về sự cần thiết phải có hành động toàn diện và phối hợp của nhà nước để thúc đẩy
phát triển kinh tế. Mặc dù hành động mạnh mẽ của nhà nước có thể là cần thiết,
không thể đương nhiên cho rằng một nhà nước mạnh có khả năng đóng vai trò dẫn đầu
trong các nỗ lực phát triển kinh tế nhất thiết phải là một nhà nước phi dân chủ.
Nói cách khác, một nhà nước mạnh và một nhà nước chuyên chế không đồng nghĩa với
nhau. Một nhà nước mạnh có bộ máy hành chính hữu hiệu và không tham nhũng, có
giới tinh hoa chính trị (political elite) sẵn sàng và có khả năng ưu tiên cho
phát triển kinh tế, và có những chính sách được thiết kế tốt để theo đuổi mục
tiêu phát triển. Một nhà nước mạnh theo nghĩa này không nhất thiết là một nhà
nước chuyên chế.11 Lập luận về những tác động của nền dân chủ đối với phát triển
kinh tế được tóm tắt trong Sơ đồ 5.1 dưới đây.
Tóm lại, quan điểm của những người chỉ trích không tới mức
cho rằng dân chủ bao giờ cũng phù hợp hơn là nền cai trị chuyên chế trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế (vì có thể có những trường hợp mà chế độ chuyên chế
đã giúp tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh hơn trong những thời kỳ nhất định).
Đúng hơn, quan điểm này là các lý lẽ cho rằng có sự đánh đổi giữa dân chủ và
phát triển chưa đủ mạnh để giúp chứng tỏ khẳng định chung về tính ưu việt của
chủ nghĩa chuyên chế đối với phát triển kinh tế là đúng. Nói cách khác, không
thể coi dân chủ và phát triển là không tương thích một cách chung chung, ngay cả
nếu tồn tại những trường hợp tăng trưởng nhanh chóng trong những điều kiện
chuyên chế. Một số nước có nền thống trị chuyên quyền hà khắc đã không chứng
minh được những lợi ích phát triển kinh tế mà những người ủng hộ thuyết đánh đổi
đã xác nhận.
SƠ ĐỒ 5.1 Dân chủ:
thúc đẩy hay cản trở phát triển kinh tế?
Dân chủ
cản trở phát triển kinh tế Dân
chủ có thể thúc đẩy phát triển kinh tế
Những lý do kinh tế Dân
chủ không có khả năng giảm tiêu dùng vì lợi ích đầu tư. Do vậy, phát triển kinh
tế bị ảnh hưởng. Đầu tư dân chủ vào
các nhu cầu cơ bản của con người là tốt cho phát triển kinh tế.
Những lý do chính trị Dân
chủ làm tăng sức ép lên các thể chế yếu kém.Hành động phối hợp của nhà nước sẽ
khó khăn hơn.
Nhà nước yếu kém.
Dân chủ
tạo môi trường chính trị ổn định và cơ sở cho đa nguyên kinh tế.Dân chủ có
nghĩa là tính chính đáng: Một nhà nước mạnh thường cũng là một nhà nước dân chủ.
Vậy thì có sự đánh đổi giữa dân chủ và phát triển hay không?
Người ta đã tiến hành một số phân tích nhằm nỗ lực trả lời câu hỏi này, nhưng vẫn
chưa có kết quả.12 Robert Marsh khảo sát kết quả hoạt động (performance) của
chín mươi tám quốc gia từ năm 1955 đến năm 1970 và kết luận rằng “cạnh tranh
chính trị/dân chủ thực sự có tác động đáng kể đến tốc độ phát triển kinh tế của
chế độ dân chủ sau này; ảnh hưởng của nó là làm chậm tốc độ phát triển chứ
không phải là tạo điều kiện để phát triển. Tóm lại, trong số các quốc gia
nghèo, một hệ thống chính trị chuyên chế làm tăng tốc độ phát triển kinh tế,
trong khi hệ thống chính trị dân chủ tỏ ra là một thứ xa xỉ, làm cản trở phát
triển.”13 Yousseff Cohen đưa ra một kết luận tương tự sau khi ông nghiên cứu về
tăng trưởng kinh tế ở một số nước Mỹ Latinh.14
Trong bài phân tích của ông về các chính thể châu Phi, Dirk
Berg-Schlosser đã nói rằng các chế độ chuyên chế có “tác động mạnh mẽ, tích cực
đến tỷ lệ tăng trưởng chung của tổng sản phẩm quốc nội (GNP),”15 nhưng ông nhấn
mạnh rằng các chế độ dân chủ (polyarchic – hệ thống chính trị đa trung tâm quyền
lực) đã làm tốt hơn những gì được kỳ vọng: “Do vậy hệ thống chính trị đa trung
tâm quyền lực khá thành công cả về tăng trưởng GNP và cải thiện chất lượng cơ bản
cuộc sống. Những hệ thống này cũng đạt được thành tích tốt nhất về các tiêu chuẩn
thông thường (bảo vệ quyền tự do công dân và tự do không bị đàn áp chính trị).”16
Dwight King đưa ra một kết luận tương tự trong nghiên cứu của mình về sáu quốc
gia châu Á: “Nếu thành tích được đánh giá bằng sự bình đẳng về vật chất và phúc
lợi chứ không phải là tăng trưởng, và được nghiên cứu theo lịch đại trong thập
niên vừa qua và trong các nhóm dân số khác biệt (nông thôn, không có đất, và gần
như không có đất), thì các chế độ kiểu dân chủ (Malaysia, Sri Lanka) đã có
thành tích tốt hơn so với những chế độ chuyên chế quan liêu (Indonesia,
Philippines, Thái Lan).”17
Trong một nghiên cứu khác từ rất sớm, G. William Dick đã xem xét số liệu tăng trưởng
của bảy mươi hai quốc gia từ năm 1959 tới năm 1968. Ông phân loại các nước theo
hình thái chính phủ của họ: chuyên quyền, bán cạnh tranh, hoặc cạnh tranh. Ông
sẵn sàng thừa nhận các dữ liệu vẫn còn không rõ ràng, nhưng ông cho rằng “chắc
chắn kết quả này không giúp giải thích, và có xu hướng bác bỏ quan điểm cho rằng
các quốc gia chuyên chế trong mọi trường hợp có khả năng đạt được tăng trưởng
kinh tế trong giai đoạn phát triển ban đầu nhanh hơn so với các nước có hệ thống
chính trị cạnh tranh.”18
Do vậy, như đã đề cập trước đó, không có câu trả lời rõ ràng
cho câu hỏi về sự đánh đổi từ những nghiên cứu này, và việc xem xét lại các
phân tích bổ sung không giúp ích gì nhiều, như các cuộc điều tra khái quát về
lĩnh vực này đã chứng minh.19 Không thể tránh khỏi nảy sinhcâu hỏi liệu đây có
phải là việc làmcó ý nghĩađể tìm kiếm mộtcâu trả lờidứt khoát thông quacác phân
tích chủ yếumang tính định lượng đối với một số lớn cáctrường hợptrong những
giai đoạnhạn chế về mặt thời gian. Đóng góp của Dick đã đưa ra mộtví dụ hay vềnhững
vấn đềliên quan.
Đầu tiên, có vẻ không hợp lý khi dựa trên một phân tích như
vậy trong khoảng thời gian chưa đầy một thập niên. Thành tích kinh tế của các
nước đang phát triển thay đổi đáng kể theo thời gian, và chín năm không phải là
một khoảng thời gian đại diện. Thứ hai, trong khi nghiên cứu sử dụng một số ít
các trường hợp thì không mang tính đại diện, còn nghiên cứu sử dụng số lượng lớn
các trường hợp luôn gặp phải những vấn đề về phân loại chế độ. Những nước có
thành tích tăng trưởng tốt nhất trong bài phân tích của Dick là những nước được
gọi là bán cạnh tranh. Theo định nghĩa ông sử dụng và dữ liệu từ năm 1970,
Algeria, Ethiopia, Nam Phi, và Nicaragua dưới thời Anastasio Somoza được xếp
vào không phải là chế độ chuyên quyền mà là bán cạnh tranh. Nhưng người ta có
thể dễ dàng tranh luận rằng những chế độ như vậy cần được coi là chuyên chế, và
như vậy là toàn bộ cơ sở cho kết luận của Dick sẽ biến mất.
Các bài đóng góp khác vào tranh luận gặp phải những vấn đề
tương tự. Những gì chúng ta biết được từ những phân tích này là một số lớn các
nước không được xác định rõ ràng là chế độ dân chủ hay chuyên quyền và họ thường
chuyển đổi giữa các chế độ này, hôm qua là bán dân chủ, hôm nay là chuyênchế,
và ngày mai lại bán dân chủ. Mỗi lần những nước này dừng chân ở một trong các
chế độ được phân loại, dữ liệu về thành tích kinh tế của họ, thường chỉ trong một
vài năm, lại đưa đến một tranh cãi khác trong các cuộc điều tra này.
Nếu có thể giải quyết những vấn đề bao trùm về phương pháp
luận thì liệu có thể tìm ra một câu trả lời thích đáng mọi nơi, mọi lúc cho câu
hỏi về sự đánh đổi hay không? Tôi cho rằng không thể đi đến một tuyên bố mang
tính qui luật (law-like) về các tác động của hình thái chế độ chính trị đến
phát triển kinh tế. Khi lý thuyết hóa mối quan hệ này, chúng ta cần phải bớt
tham vọng khi nghiên cứu ở mức độ tầm trung. Thay vì cố gắng đưa ra những tuyên
bố phổ quát về mối quan hệ giữa hình thái chế độ chính trị và phát triển kinh tế,
chúng ta cần phải tìm kiếm những liên hệ một cách hệ thống giữa kết quả phát
triển và các loại hình khác nhau của chế độ dân chủ và chuyên chế, và chúng ta
phải nghiên cứu các kết quả đó theo từng cặp trường hợp có thể so sánh được giữa
chế độ dân chủ và chuyên chế.
Cả hai cách làm này đều được thử nghiệm trong các phần sau
đây. Đầu tiên chúng ta sẽ xem xét một cặp trường hợp có thể so sánh được giữa một
nước chuyên chế và một nước dân chủ, và sau đó xem xét các loại hình khác nhau
của chế độ chuyên chế và dân chủ.20
So sánh Ấn Độ và Trung Quốc
Nguồn:
Georg Sørensen, “Domestic Consequences of Democracy: Growth and
Welfare?”, in G. Sørensen, Democracy and Democratization: Processes and
Prospects in a Changing World, (Philadenphia: Westview Press, 2008), pp.
99-130.
Những học giả đã đề cập đến vấn đề này không phải ai cũng lạc quan; một số người thậm chí thấy đây là sự đánh đổi (trade-off) giữa một bên là nền dân chủ chính trị với bên kia là phát triển kinh tế. Chương này sẽ phác thảo những điểm chính trong cuộc tranh luận lý thuyết, và khảo sát các nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề này.1 Tôi bác bỏ quan niệm về một sự đánh đổi chung chung giữa dân chủ và phát triển kinh tế, và tôi sẽ chứng minh tại sao phát triển kinh tế và cải thiện phúc lợi không nhất thiết sẽ tự khắc đến với những nền dân chủ mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét