Tác giả: Heather Stur - Dịch giả: Phan Ba
Ngày
5 tháng 12 năm 1967, dưới sự che chở của đêm tối, một nhóm quân du kích
Việt Cộng và quân đội Bắc Việt đã đốt cháy làng Đắk Sơn khi dân cư của
nó còn đang ngủ. Những kẻ tấn công dùng súng phun lửa và lựu đạn, và họ
có sẵn súng của họ cho những người cố trốn thoát.
Người dân làng, tỉnh giấc nhìn thấy những mái nhà bằng rơm đang cháy rực lửa của họ, cố gắng chạy trốn, và nhiều người trong số họ, những người đã chạy được vào trong các đường hầm và hang động trước khi bị những viên đạn hạ gục, đều bị đốt cháy trong những ngọn lửa của các khẩu súng phun lửa hay bị chết ngạt trong hang động của họ.
Người dân làng, tỉnh giấc nhìn thấy những mái nhà bằng rơm đang cháy rực lửa của họ, cố gắng chạy trốn, và nhiều người trong số họ, những người đã chạy được vào trong các đường hầm và hang động trước khi bị những viên đạn hạ gục, đều bị đốt cháy trong những ngọn lửa của các khẩu súng phun lửa hay bị chết ngạt trong hang động của họ.
Khi
buổi sáng đến, những người sống sót loạng choạng bước ra để xem xét
thiệt hại, và họ đã tìm thấy hơn 200 xác chết, phần lớn là thân thể của
phụ nữ và trẻ em. Nhiều dân làng khác mất tích, được cho là đã bị những
kẻ tấn công bắt cóc mang đi.
Đắk
Sơn là một làng do chánh phủ kiểm soát ở tỉnh Phước Long, độ chừng 75
dặm về phía đông bắc của Sài Gòn, gần biên giới với Campuchia. 2000
người dân của nó là người Thượng, một bộ tộc thiểu số từ lâu đã chống
lại sự xâm nhập của Việt Cộng vào Tây Nguyên. Khoảng 800 người Thượng tị
nạn đã chạy trốn về Đắk Sơn từ những ngôi làng bị Việt Cộng chiếm, và
vì vậy mà du kích đã quyết định lấy Đắk Sơn để làm gương đe dọa nhằm
ngăn chận những đợt chạy trốn khác ra khỏi các vùng đất do Việt Cộng
kiểm soát. Người Thượng cũng phục vụ trong các lực lượng quân đội địa
phương được gọi là Địa phương quân và Nghĩa quân, hay “ruff-puff”, nhằm
bảo đảm an ninh và bảo vệ làng mạc của họ chống lại sự xâm nhập của Việt
Cộng. Quân đội Hoa Kỳ và Nam Việt Nam huấn luyện các lực lượng an ninh
địa phương, khiến cho Việt Cộng càng coi khinh họ nhiều hơn. Theo một
phóng viên của tạp chí Time viết về vụ thảm sát Đắk Sơn, du kích Việt
Cộng hét lớn “Con của Mỹ!” khi họ tấn công vào làng.
Hiếm
khi được đưa vào trong lịch sử đại cương của cuộc Chiến tranh Việt Nam,
Thảm sát Đắk Sơn tượng trưng cho tình huống bề nào cũng thua thiệt của
người dân làng bình thường tại Việt Nam. Thường dân Việt Nam bị bao vây
mọi phía bởi bạo lực và đe dọa dùng bạo lực. Allan Lavelle, một phi công
về hưu của Hải quân và Không quân Mỹ, làm việc cho U.S.A.I.D. tại Việt
Nam như là giám đốc bộ phận về người tỵ nạn và nạn nhân chiến tranh
trong vùng đất mà Đắk Sơn nằm trong đó. Ông viết trong một quyển hồi ký
chưa được công bố rằng người Thượng dùng phần lớn thời gian của họ để
nấp trong những đường hầm để tránh không bị bắt trong những chiến dịch
quân sự của Việt Cộng và quân đội Nam Việt Nam. Vào ban đêm, quân đội
Bắc Việt và cán bộ Việt Cộng quấy rối và đe dọa họ. Lavelle, qua đời năm
2008, so sánh tình huống của người Thượng ở Việt Nam với người Mỹ gốc
Phi ở Mississippi trong những năm 1920. Khi tôi là nghiên cứu sinh của
Fulbright tại Việt Nam trong những năm 2013 và 2014, người Việt bạn tôi ở
nông thôn và những người quen của tôi xác nhận rằng nông dân phải đối
mặt với quấy rối và bạo lực về ban ngày từ quân đội Nam Việt Nam và rồi
một lần nữa về đêm từ Việt Cộng.
Lavelle
ngồi trên chiếc trực thăng đến Đắk Sơn để thanh tra người tỵ nạn vào
buổi sáng sau vụ thảm sát, và ông là một trong những người ngoài cuộc
đầu tiên khảo sát hậu quả. Sau đó, ông đã dành nhiều tuần ở lại làng để
giúp những người sống sót tìm xác và chôn người chết. Sự phân hủy đã
nhanh chóng bắt đầu trong vùng nhiệt đới dầy đặc và ẩm ướt, Lavelle kể
lại rằng ông phải dùng một cái khăn tay che mũi và miệng của mình để
giảm bớt mùi hôi thối và để không phải hít phải ruồi. Nhiều tuần sau,
ông đến những làng người Thượng khác trong vùng, và biết rằng những
người dân làng này không nghe nói về vụ thảm sát Đắk Sơn. Nếu như mục
tiêu của cuộc tấn công là làm cho người Thượng phải sợ hãi để ở lại
trong lãnh thổ của Việt Cộng thì nó đã không thành công hoàn toàn. Vụ
thảm sát thậm chí còn không làm nhụt ý chí của những người sống sót ở
Đắk Sơn. Họ bắt đầu xây dựng lại gần như ngay lập tức.
Khủng
bố là một phần cốt lõi trong chiến lược của Việt Cộng. Sử gia Douglas
Pike đã đưa ra lập luận này trong các nghiên cứu của ông về Việt Cộng,
những cái dựa trên thời gian hơn mười năm sống ở Nam Việt Nam của ông
như là nhân viên Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ. Pike, một cựu chiến binh của
Đệ Nhị Thế Chiến tại chiến trường Thái Bình Dương, đã thu thập tài liệu
về những hành động khủng bố của Việt Cộng, bao gồm cả vụ thảm sát hàng
ngàn người dân thường ở Huế trong đợt tấn công Tết Mậu Thân. Một quả bom
ô tô ở đây và một vụ nổ tại một ngôi chợ ở kia tưởng chừng như ngẫu
nhiên nhưng thật ra chúng gây ấn tượng sai lầm về bản chất có tính toán,
dựa trên lý trí của chánh sách khủng bố của Việt Cộng như là một chiến
thuật chánh trong chiến lược tiến hành chiến tranh của họ.
Những
kẻ khủng bố đã tiến hành nhiều vụ ám sát, đặt thuốc nổ và quẳng lựu đạn
vào những chỗ đông người. Kỹ thuật viên lành nghề từ trụ sở chỉ huy
tỉnh hay vùng đã chế tạo và kích nổ chất nổ và cung cấp lãnh đạo cho các
tổ hoạt động. Việt Cộng chủ yếu nhắm vào làng mạc, đặc biệt là những
thôn ấp mà họ cho rằng theo Sài Gòn, và mục đích của một cuộc tấn công
thường là để gây rối loạn và sợ hãi hơn là giết một số lớn thường dân.
Khi nhắm vào cá nhân ở vùng nông thôn, các du kích quân tập trung vào
những người trưởng làng hay trưởng thôn ấp, nhân viên chánh phủ và những
người tình nghi là “chỉ điểm” và “phản bội” khác, cũng như người nước
ngoài, kể cả linh mục và các nhà truyền giáo khác, nhân viên cứu trợ
nhân đạo và nhân viên của chánh phủ Mỹ.
Huyền
thoại quanh hình ảnh của Việt Cộng như là một phong trào có tổ chức đã
che đậy việc lập kế hoạch, huấn luyện và tính chuyên môn mà đã định hình
và tiến hành chiến lược khủng bố của họ. Các cán bộ hiểu rằng họ đi
trên một con đường mỏng manh giữa gây ra sợ hãi trong dân thường và kích
động căm thù. Lãnh đạo Việt Cộng cố làm cho những hoạt động khủng bố
trông như không có liên quan đến cuộc đấu tranh chánh trị của Mặt Trận.
Những người nắm quyền thành lập “các tổ chức bí mật để phá hoại trong
khu đô thị” nhằm để cho họ trông như “không có liên quan đến các tổ chức
chánh trị”. Lãnh đạo Việt Cộng biết rằng phong trào của họ có thể mất
uy tín nếu như người ta có thể thấy rõ những hoạt động cho một cuộc cách
mạng bạo lực của họ.
Các
nguồn tin của Việt Cộng đã bào chữa cho việc tiến hành khủng bố như là
lựa chọn duy nhất mà họ đưa ra để chống lại “chánh sách chiến tranh và
khủng bố của kẻ thù.” Không phải tất cả các cán bộ đều đồng ý với đường
lối chánh thức; một số cho rằng một mình cuộc đấu tranh chánh trị là có
thể lật đổ được chánh quyền Sài Gòn, và khủng bố có thể mang lại tác
động trái ngược với những gì mà Việt Cộng dự định. Một quyển sách tuyên
truyền nhỏ giải thích rằng bạo lực là một thành phần cốt yếu trong công
thức cách mạng. “Phương cách đúng đắn duy nhất để tổ chức các lực lượng
cách mạng và chuẩn bị về mọi mặt nhằm đập tan guồng máy bạo lực của kẻ
địch là sử dụng hình thức đấu tranh vũ trang thích hợp,” quyển sách giải
thích. “Sự xuất hiện của hình thức đấu tranh mới này không chỉ đáp ứng
một nhu cầu cấp bách mà còn là một hệ quả không thể tránh khỏi của phong
trào cách mạng. Nó không mâu thuẫn với cuộc đấu tranh chánh trị mà bổ
sung cho nó và mở đường cho cuộc đấu tranh chánh trị phát triển.” Niềm
tin vào bản chất đã được định trước của cuộc cách mạng Cộng sản Việt Nam
đã cho phép Việt Cộng bào chữa những hoạt động đấu tranh bạo lực của
họ.
Thông
qua khủng bố, Việt Cộng muốn gây sợ hãi trong người dân và làm mất ổn
định hệ thống chánh trị Sài Gòn, phá hoại nỗ lực thiết lập xã hội dân
chủ. Bạo lực kết hợp với rối loạn ở thủ đô và các khu thành thị khác, ở
những nơi mà sinh viên, trí thức và nhà báo phản đối sự hoạt động chậm
chạp của chánh phủ trong việc ban hành các thể chế chánh trị dân chủ và
cho phép công dân bầu một chánh phủ dân sự. Giới quan chức Sài Gòn phản
ứng lại các vụ khủng bố bằng cách bắt giam những nhà bất đồng chánh kiến
và cho rằng bất cứ ai nói chống lại chánh phủ đều là một người Cộng
sản. Về phần mình, việc đàn áp quyền tự do dân sự lại xác nhận lời quả
quyết của Việt Cộng và những nhóm chống chánh phủ khác, cho rằng giới
lãnh đạo Sài Gòn là độc tài. Nhiệm vụ của khủng bố đã thành công.
Thường
dân Việt Nam bị tấn công từ mọi hướng. Chánh quyền Sài Gòn và Đồng minh
Hoa Kỳ đến với họ từ một hướng; từ một hướng khác là Hà Nội và Việt
Cộng với sự hỗ trợ của Trung Quốc và Nga. Cho tới nay, các nhà nghiên
cứu về cuộc chiến này chưa cung cấp một tường trình đầy đủ về những sự
kiện tương tự như vụ thảm sát Đắk Sơn. Đã quá lâu, việc tường thuật về
lịch sử của cuộc xung đột này là một trò chơi có tổng số bằng không mà
trong đó cuộc Chiến tranh Việt Nam là một nghiên cứu điển hình, cái đã
tạo một phê bình sâu rộng trên thế giới về chánh sách đối ngoại và lần
can thiệp của Mỹ. Quan điểm chánh thống của cuộc chiến nhấn mạnh đến các
hành động của những nhà hoạch định chánh sách, các cơ quan quân sự và
quân đội. Người Việt xuất hiện tương đối một chiều, như là những con rối
tham nhũng do Bộ Ngoại giao kiểm soát, các nhà cách mạng được lãng mạn
hóa hay một đám đông nông dân vô danh bị vướng giữa hai làn đạn. Sự
chánh thống ít quan tâm đến cơ quan, chiến lược hay thế giới quan của
Việt Nam và nó không màng đến sự đa dạng của các ý kiến ở Bắc và Nam
Việt Nam về việc một nước Việt Nam độc lập cần phải trông giống như thế
nào.
Các
sử gia làm việc với những nguồn Việt Nam dẫn chúng ta đến việc xác định
tính phức tạp của thái độ người Việt về tương lai của đất nước họ, các
chánh sách có liên quan, ảnh hưởng của ý kiến quốc tế về cách thức cuộc
xung đột diễn ra, và bản chất của bạo lực đối với thường dân người Việt.
Câu hỏi ai có quyền quyết định tương lai của Việt Nam là một phần cơ
bản của cuộc xung đột rộng lớn hơn mà các chánh phủ ở Sài Gòn và Hà Nội,
Việt Cộng và người dân Việt cũng như người nước ngoài đủ mọi sắc màu
chánh trị đều có liên quan đến.
Hiệp
Chúng Quốc Hoa Kỳ, Nam Việt Nam, Bắc Việt Nam và Việt Cộng đều là đồng
lõa trong việc bắt giam, tra tấn và giết chết người dân thường Việt Nam.
Nghiên cứu kỹ lưỡng về bạo lực và khủng bố của Bắc Việt và Việt Cộng
không buộc phải phủ bóng lên sự đổ máu và phá hoại mà người Mỹ đã gây ra
ở Việt Nam. Nhận thức về việc đưa ra quyết định và hành động của người
Việt, bao gồm cả bạo lực chống lại đồng bào người Việt, nhìn nhận lòng
nhân đạo của người Việt và làm tăng sự tuyệt vọng đã thúc đẩy cảnh huynh
đệ tương tàn trong cuộc đấu tranh cho tự do sau hơn một thế kỷ dưới ách
thực dân.
Phan Ba dịch từ: https://www.nytimes.com/2017/12/19/opinion/vietcong-generals-atrocities.html
Heather
Stur là giáo sư lịch sử tại Đại học Nam Mississippi và là thành viên
tại Trung viên Nghiên cứ Chiến tranh và Xã hội Dale. Bà là đồng tác giả
của sách “Integrating the U.S. Military: Race, Gender, and Sexual
Orientation Since World War II” và là tác giả của quyển “Beyond Combat:
Women and Gender in the Vietnam War Era”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét