Biên dịch: Trần Hương Phong
Hiệu đính: Bùi Hải Thiêm
Các dạng chế độ chuyên chế
So
sánh Ấn Độ và Trung Quốc giúp làm rõ hơn cuộc tranh luận lý thuyết về
kết quả phát triển kinh tế của các chế độ dân chủ và chuyên chế. Tuy
nhiên, rõ ràng không thể giải quyết tranh luận trên cơ sở so sánh một
cặp trường hợp. So sánh như vậy không nói lên điều gì về quan hệ giữa Ấn
Độ và Trung Quốc với các ví dụ khác của chế độ chuyên chế và dân chủ.
Thậm chí nếu sự tương phản giữa Ấn Độ và Trung Quốc không đánh giá cao
nền dân chủ Ấn Độ, thì cần thiết phải tìm hiểu thêm các dạng khác nhau
của chế độ chuyên chế và dân chủ, và tìm hiểu xem Ấn Độ và Trung Quốc
khớp với bức tranh toàn cảnh này ra sao trước khi rút ra kết luận xa
hơn.
Tôi sẽ lập luận trong các phần tiếp theo sau đây rằng Trung Quốc không phải là trường hợp rất điển hình cho nhóm các chế độ chuyên chế. Trung Quốc, cùng với một vài quốc gia khác, thuộc về một nhóm khá riêng biệt của chế độ chuyên chế chủ xướng phát triển có khả năng thúc đẩy cả tăng trưởng kinh tế lẫn phúc lợi. Khi chúng ta nhìn vào kết quả phát triển, phần lớn các chế độ chuyên chế thuộc về hai nhóm kém hấp dẫn hơn: Hoặc là chúng thúc đẩy tăng trưởng nhưng không thúc đẩy phúc lợi hoặc thậm chí tệ hơn, chúng chẳng thúc đẩy cái nào. Các chế độ trong nhóm sau cùng này không lấy phát triển kinh tế làm mục tiêu chính của mình. Mục tiêu tối thượng của họ là làm giàu cho giới tinh hoa kiểm soát nhà nước. Ba loại hình chính của chế độ chuyên chế được trình bày trong Sơ đồ 5.2 và được mô tả kỹ hơn dưới đây.
Tôi sẽ lập luận trong các phần tiếp theo sau đây rằng Trung Quốc không phải là trường hợp rất điển hình cho nhóm các chế độ chuyên chế. Trung Quốc, cùng với một vài quốc gia khác, thuộc về một nhóm khá riêng biệt của chế độ chuyên chế chủ xướng phát triển có khả năng thúc đẩy cả tăng trưởng kinh tế lẫn phúc lợi. Khi chúng ta nhìn vào kết quả phát triển, phần lớn các chế độ chuyên chế thuộc về hai nhóm kém hấp dẫn hơn: Hoặc là chúng thúc đẩy tăng trưởng nhưng không thúc đẩy phúc lợi hoặc thậm chí tệ hơn, chúng chẳng thúc đẩy cái nào. Các chế độ trong nhóm sau cùng này không lấy phát triển kinh tế làm mục tiêu chính của mình. Mục tiêu tối thượng của họ là làm giàu cho giới tinh hoa kiểm soát nhà nước. Ba loại hình chính của chế độ chuyên chế được trình bày trong Sơ đồ 5.2 và được mô tả kỹ hơn dưới đây.
SƠ ĐỒ 5.2 Các loại hình chế độ chuyên chế và hệ quả của nó đối với phát triển kinh tế
Những khía cạnh phát triển kinh tế | |||
Dạng thể chế | Tăng trưởng | Phúc lợi | Nước làm ví dụ |
Chế độ chuyên chế chủ xướng phát triển | + | + | Đài Loan dưới nền cai trị chuyên chế; Trung Quốc |
Chế độ chuyên chế chủ xướng tăng trưởng | + | – | Brazil dưới nền thống trị quân sự |
Chế độ chuyên chế làm giàu cho giới tinh hoa lãnh đạo nhà nước | – | – | Zaire dưới chế độ Mobutu |
Chế độ chuyên chế phát triển
Nét
khác biệt của một chế độ chuyên chế chủ xướng phát triển (authoritarian
developmentalist regime) là nó có khả năng thúc đẩy cả tăng trưởng và
phúc lợi. Chính phủ hoạt động theo định hướng cải cách và có được mức độ
độc lập cao thoát khỏi ảnh hưởng của lợi ích giới tinh hoa nắm quyền
lực (vested elite). Chính phủ kiểm soát một bộ máy nhà nước có năng lực
tổ chức, hành chính để thúc đẩy phát triển, và bộ máy này được điều hành
bởi một tầng lớp lãnh đạo nhà nước trung thành về tư tưởng với việc
thúc đẩy phát triển kinh tế cả về tăng trưởng cũng như phúc lợi. Trung
Quốc là một ví dụ của chế độ chuyên chế chủ xướng phát triển theo dạng
xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra còn có cả dạng tư bản chủ nghĩa, như Đài Loan
dưới sự cai trị chuyên chế (kéo dài từ năm 1949 đến đầu những năm 1990)
là một ví dụ. Đài Loan, giống như Trung Quốc, đẩy mạnh phát triển kinh
tế thông qua cải cách ruộng đất triệt để và chuyển thặng dư kinh tế từ
nông nghiệp sang công nghiệp. Giống như ở Trung Quốc, nhà nước tham gia
vào nền kinh tế ở mức độ cao.
Nhưng
cũng có những điểm không tương đồng giữa hai nước này, trong đó một số
điểm giải thích cho thực tế là Đài Loan trên một số lĩnh vực thành công
hơn phiên bản xã hội chủ nghĩa của nó (Trung Quốc đại lục).39
Thứ
nhất, hoàn cảnh khởi đầu của các nước này khi họ bắt đầu theo đuổi phát
triển kinh tế (vào khoảng năm 1949) là khác nhau. Trung Quốc vừa trải
qua một cuộc nội chiến tàn khốc hồi nửa đầu thế kỷ 20; cùng thời kỳ đó,
sự cai trị có trật tự của Nhật tại Đài Loan đã tạo ra nền tảng cho những
tiến bộ trong phát triển kinh tế.
Thứ
hai, Đài Loan đã không áp dụng chính sách kế hoạch hóa tập trung như ở
Trung Quốc; chính quyền ở đây chưa bao giờ cố gắng độc quyền hóa quyền
lực kinh tế. Con đường phát triển Đài Loan đã chọn giống với mô hình của
Nhật Bản hơn là mô hình của Trung Quốc, với sự kết hợp giữa các lực
lượng thị trường và sở hữu tư nhân và với vai trò dẫn dắt sát sao của
nhà nước đối với thị trường. Đài Loan dường như đã tìm được sự cân bằng
thích hợp cho các vấn đề bế tắc, giữa “quá nhiều vai trò nhà nước” và
chủ nghĩa siêu tự do để cho các lực lượng thị trường không bị kiểm soát,
thứ không tự nhiên phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế.
Thứ
ba, Đài Loan đã trải qua một quá trình tăng trưởng và tăng năng suất
lao động một cách thuận buồm xuôi gió trong cả nông nghiệp, với hệ thống
các trang trại gia đình, lẫn trong công nghiệp, có sự nhấn mạnh vào sản
xuất công nghiệp nhẹ, thâm dụng lao động, được các doanh nghiệp công hỗ
trợ. Trong quá trình cải cách kinh tế này, Đài Loan đã không phải nếm
trải những trở lực nghiêm trọng do thất bại chính sách mà Trung Quốc là
tiêu biểu. Toàn bộ quá trình này lại được hậu thuẫn bởi viện trợ kinh tế
đáng kể của Hoa Kỳ. Ngược lại, Trung Quốc bắt chước mô hình tăng trưởng
công nghiệp của Stalin, trong đó chú trọng quá mức đến công nghiệp nặng
và để quá ít cơ hội cho phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp.
Trung Quốc đi theo chính sách này mãi đến cuối những năm 1970. Ngoài ra,
Trung Quốc còn bị cô lập trên trường quốc tế trong một thời gian dài,
và quan hệ của nước này với Liên Xô cũ trong những năm 1950 đã không
mang lại nhiều giúp đỡ kinh tế so với những gì Đài Loan nhận được từ Hoa
Kỳ. Thành công phát triển của Đài Loan đã mở đường cho nước này quá độ
sang chế độ dân chủ trong những năm 1990.
Đã
có thời điểm người ta hy vọng rằng “bốn con hổ” châu Á (tức là Đài
Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, và Singapore) đại diện cho mô hình phát triển
của chế độ chuyên chế chủ xướng phát triển, trở thành một hình thái phù
hợp cho các nước khác. Điều này đã tỏ ra là không đúng. Việt Nam có thể
là một ví dụ hiện nay của chế độ chuyên chế chủ xướng phát triển ở chỗ
nó dường như đi theo mô hình của Trung Quốc về tự do hóa kinh tế và tăng
trưởng với sự chú trọng nhất định tới bình đăng, nhưng rất khó tìm thấy
mô hình chuyên chế chủ xướng phát triển tại các nơi khác trên thế giới.40 Điều
này chỉ ra rằng có sự kết hợp đặc biệt giữa các điều kiện về kinh tế,
văn hóa, chính trị, và những điều kiện tiên quyết khác tồn tại trong
trường hợp của Đông Nam Á mà có thể không dễ dàng được nhân rộng ở nơi
nào khác.
Các chế độ chuyên chế tăng trưởng
Loại
hình quan trọng thứ hai của chế độ chuyên chế là chế độ chuyên chế chủ
xướng tăng trưởng (authoritarian growth regime), một chính phủ chi phối
bởi giới tinh hoa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chứ không phải phúc lợi.
Brazil dưới nền cai trị quân sự, từ năm 1964 cho đến giai đoạn tái dân
chủ hóa hiện nay là một ví dụ điển hình của hình thức cai trị này. Là
một chế độ chuyên chế chủ xướng tăng trưởng, Brazil biểu lộ các đặc điểm
sau: Nó theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhằm mục đích xây dựng
nền kinh tế quốc dân hùng mạnh (từ đó có thể tạo cơ sở cho một lực lượng
quân sự mạnh mẽ), và nó tôn trọng các lợi ích lâu dài (nhưng không nhất
thiết phải là lợi ích trước mắt) của các lực lượng xã hội chiếm ưu thế
trong lúc lại dựa vào tầng lớp công nông của đại đa số người nghèo để có
được thặng dư kinh tế cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng.
Như
vậy, nhà nước Brazil rõ ràng là một mô hình phát triển theo định hướng
của giới tinh hoa lãnh đạo. Nó dựa vào liên minh giữa tư bản tư nhân
trong nước, doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn xuyên quốc gia. Định
hướng của giới tinh hoa của mô hình này áp dụng cho phía cung của phát
triển (bởi vì nó nhấn mạnh tầm quan trọng của hàng tiêu dùng lâu bền )
cũng như phía cầu (bởi vì công nghiệp hóa đòi hỏi vốn lớn, với hầu hết
lợi ích thuộc về một tầng lớp nhỏ viên chức và lao động trí óc và công
nhân có tay nghề cao). Đại đa số người nghèo thực sự không được hưởng
lợi từ quá trình tăng trưởng; nhiều người dân có nhu cầu cấp thiết trong
các lĩnh vực y tế cơ bản, nhà ở, giáo dục, và công ăn việc làm có thu
nhập.41 Các
biện pháp cải cách tái phân phối, bao gồm cải cách ruộng đất, hẳn đã có
thể giúp thúc đẩy lĩnh vực phúc lợi của phát triển kinh tế, nhưng những
gì chế độ này đã thực hiện, đặc biệt là trong những năm đầu của nó,
chính xác là trái ngược với quá trình tái phân phối. Sau khi cô lập các
tổ chức quần chúng khỏi ảnh hưởng chính trị, chính quyền nước này đã
mạnh tay cắt giảm tiền lương thực tế và thực hiện những biện pháp khác
dẫn đến tập trung một phần thu nhập đáng kể để dành ưu đãi 20 phần trăm
dân số giàu nhất.42
Các
chính quyền quân sự, những người đã áp đặt nền cai trị độc tài ở
Uruguay, Chile và Argentina vào thời kỳ đầu và giữa những năm 1970, nỗ
lực thực hiện mô hình tăng trưởng kinh tế với những đặc điểm tương tự.
Tuy nhiên, họ đã không thành công bằng thể chế Brazil về mặt tăng trưởng
kinh tế. Trái ngược với Brazil, những nước này đã mở cửa nền kinh tế
của họ, phải hứng chịu những cú sốc từ bên ngoài (external shocks) thông
qua việc theo đuổi các chính sách kinh tế siêu tự do, việc mà, trước
khi các biện pháp khắc phục được thực hiện, đã dẫn đến tình trạng phi
công nghiệp hóa, tức là phá bỏ nền tảng công nghiệp hiện có.43 Mặc
dù vậy, trường hợp của các nước này đều có một nét cơ bản chung: Các
thể chế chuyên chế đã cố gắng theo đuổi tăng trưởng kinh tế một chiều
theo một liên minh với lợi ích của giới tinh hoa lãnh đạo.
Chế độ chuyên chế làm giàu cho giới tinh hoa lãnh đạo
Loại
hình quan trọng cuối cùng của chế độ chuyên chế là chế độ chuyên chế
làm giàu cho giới tinh hoa lãnh đạo (authoritarian state elite
enrichment regime – ASEE), nó không thúc đẩy tăng trưởng hay phúc lợi mà
mục đích chính của nó là làm giàu cho tầng lớp tinh hoa kiểm soát nhà
nước. Chế độ này thường dựa trên sự thống trị độc đoán của một nhà lãnh
đạo tối cao. Mặc dù các hành động của nhà lãnh đạo có thể là khó hiểu
khi đánh giá theo tiêu chuẩn của mục tiêu phát triển chính thức mà chế
độ này đề ra, chúng hoàn toàn có thể hiểu được thông qua lăng kính của
nền chính trị bảo trợ và phe nhóm (patronage and clientelistic
politics). Một số thể chế ở châu Phi, với các chế độ cá nhân trị như mô
tả trong Chương 2, chính là những nước thuộc nhóm chế độ chuyên chế này.
Một nhà quan sát đã mô tả hệ thống này như một trong những thứ chính
trị thị tộc (clan): “Thị tộc là một phe phái chính trị, hoạt động trong
phạm vi thể chế của nhà nước và đảng cầm quyền; nó tồn tại trên tất cả
để thúc đẩy lợi ích của các thành viên của nó. . . và nguyên tắc thống
nhất đầu tiên của nó là triển vọng về những phần thưởng vật chất của
thành công chính trị: tiền là biểu tượng (totem) của thị tộc này.”44
Phần
giá trị thặng dư lọt vào tay giới lãnh đạo thông qua việc họ kiểm soát
nhà nước sẽ được phân phối trong thị tộc hay liên minh các phe phái, các
tầng lớp này đến lượt mình lại ủng hộ về chính trị cho người lãnh đạo.
Tất nhiên, đây không phải một hình mẫu phân phối đồng đều; phần lợi ích
lớn nhất tích lũy về cho nhà lãnh đạo tối cao và một nhóm nhỏ quyền lực
vây quanh ông ta. Không có sự phân biệt rõ ràng giữa các chính trị gia
và công chức nhà nước; các công bộc này tích cực tham gia vào nỗ lực để
giành lợi cho cá nhân từ địa vị chức quyền của họ.
Như
vậy, bất chấp tuyên bố chính thức ngược lại, giới tinh hoa cầm quyền
không thực sự quan tâm đến phát triển kinh tế, cho dù là về tăng trưởng
hay phúc lợi. Mục đích chính của chế độ là làm giàu cho bản thân người
cầm quyền. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi hành động theo chiến lược
cân bằng giữa các đối thủ tiềm năng (những người được đút lót, mua chuộc
hoặc bị đàn áp bằng vũ lực) và, như đã nói trên, còn đòi hỏi cả việc
phân phối lợi lộc kiếm được. Cả hai cách này có thể có tác dụng phụ đối
với việc thúc đẩy hoặc phúc lợi hoặc tăng trưởng, nhưng xin nhắc một lần
nữa, kết quả đạt được không phải là mục đích chính.
Zaire (nay là Congo) dưới thời Mobutu có thể là ví dụ rõ ràng nhất của một thể chế ASEE.45Tầng
lớp bên trong của thị tộc Mobutu bao gồm vài trăm người, là “bè cánh”
của Mobutu. Các vị trí sinh lợi trong chính quyền, ngoại giao đoàn,
đảng, quân đội, cảnh sát mật, và văn phòng Tổng thống được dành riêng
cho các thành viên của thị tộc này.46 Họ
trực tiếp đòi hưởng khoảng 20 phần trăm ngân sách quốc gia, và thu nhập
của họ được bổ sung thông qua hoạt động buôn lậu (kim cương và vàng) và
buôn bán đồng của tư nhân. Bản thân Mobutu có cổ phần riêng trong tất
cả các vụ kinh doanh của nước ngoài hoạt động ở Zaire, và gia đình ông
ta kiểm soát 60 phần trăm mạng lưới thương mại nội địa. Giờ đây cố tổng
thống Mobutu đã tích lũy được cả một khối tài sản khổng lồ và được công
nhận là một trong những người giàu nhất thế giới.
Vì
vậy, các đặc trưng mô tả của chế độ ASEE đơn giản là giới tinh hoa kiểm
soát nhà nước chỉ bận tâm làm giàu cho bản thân. Những ví dụ khác của
châu Phi phù hợp với mô tả này là Cộng hòa Trung Phi dưới chế độ của
Jean Bedel Bokassa và Uganda dưới thời Idi Amin. Ví dụ về các chế độ
chuyên chế bên ngoài châu Phi cũng nằm trong hạng mục chế độ ASEE là
Haiti dưới thời François và JeanClaude Duvalier (Papa và Baby Doc),
Nicaragua dưới thời Somoza, và Paraguay dưới thời Alfredo Stroessner.
Hệ
thống phân loại chế độ chuyên chế như thế này có thể cho chúng ta biết
được những gì? Trước hết, không thể khái quát hóa cho toàn bộ chế độ
chuyên chế về khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế của nó. Các chế độ
chuyên chế khác nhau rất khác nhau về khía cạnh này. Trong chương này,
tôi đã mô tả ba loại hình chính của chế độ chuyên chế: các chế độ chuyên
chế chủ xướng phát triển, có khả năng thúc đẩy cả tăng trưởng và phúc
lợi; các chế độ chuyên chế chủ xướng tăng trưởng, ưu tiên cho tăng
trưởng kinh tế; và các chế độ ASEE, không thúc đẩy cả tăng trưởng lẫn
phúc lợi.
Thứ
hai, chủ nghĩa chuyên chế không đương nhiên tạo ra tăng trưởng kinh tế,
trật tự và ổn định, như những người ủng hộ đánh đổi giữa dân chủ và
phát triển kinh tế khẳng định. Chế độ chuyên chế chủ xướng tăng trưởng
có lẽ là loại hình gần nhất với quan điểm chính thống về chế độ chuyên
chế mà những người ủng hộ đánh đổi đưa ra. Dưới chế độ này, tăng trưởng
kinh tế được đẩy mạnh với cái giá làm tổn hại đến phúc lợi của đa số dân
chúng. Mặc dù những người ủng hộ chế độ này có vẻ nghĩ rằng một thời kỳ
dài tăng trưởng có thể tạo ra cơ sở vững chắc cho việc cải thiện phúc
lợi sau này, nhưng trường hợp của chế độ chuyên chế Brazil dường như đã
chứng minh ngược lại. Ở nước này, có một số trở ngại khiến cho hiệu ứng
rỉ xuống (trickle-down effect) không thể tạo ra tác động ở quy mô mà từ
đó nó có thể đóng góp đáng kể vào việc cải thiện phúc lợi.47 Một lý do quan trọng là định hướng cụ thể của giới tinh hoa đối với quá trình tăng trưởng.
Cuối
cùng, hệ thống phân loại này đưa ra những lý lẽ mới làm sáng tỏ tranh
luận về đánh đổi bằng cách nhấn mạnh sự đa dạng của các chế độ chuyên
chế. Nếu chúng ta xem xét chế độ ASEE ở Zaire, chúng ta sẽ thấy chủ
nghĩa chuyên chế chắc chắn đem lại phát triển kinh tế tồi hơn những gì
người ta đồn đại về nó; nếu chúng ta nghiên cứu chế độ chuyên chế chủ
xướng phát triển tại Đài Loan, chúng ta thấy chủ nghĩa chuyên chế là tốt
hơn nhiều cho phát triển kinh tế so với lời đồn về nó.
Trong
bối cảnh này, và khi hiểu rằng các chế độ chuyên chế chủ xướng phát
triển kiểu như Đài Loan rất hiếm xảy ra, rất dễ dàng bác bỏ lập luận về
sự đánh đổi giữa dân chủ và phát triển kinh tế với lý do là hầu hết các
chế độ chuyên chế không thành công hơn so với các chế độ dân chủ trong
lĩnh vực phát triển. Và vậy thì không có lý do gì để hy sinh các quyền
chính trị và quyền tự do gắn liền với dân chủ. Tuy nhiên, trước khi
chúng ta rút ra kết luận cuối cùng, hãy xem xét kỹ hơn các loại hình
khác nhau của chế độ dân chủ.
Các dạng chế độ dân chủ
Không
dễ phân loại các chế độ dân chủ, đơn giản chỉ vì có rất ít các nền dân
chủ tương đối ổn định trong thế giới đang phát triển. Trong nhiều trường
hợp các chế độ này là nền dân chủ chi phối bởi giới tinh hoa
(elite-dominated democracy); trong một số trường hợp họ có thể tự chuyển
đổi thành các chế độ dân chủ xã hội (social democracy) theo định hướng
phúc lợi. Tiếp theo sau đây là những phân tích sâu hơn về các dạng thể
chế khác nhau này và hệ quả của nó đối với tăng trưởng và phúc lợi.
Dân chủ chi phối bởi giới tinh hoa và dân chủ xã hội
Trong
dòng chảy của những quá trình chuyển đổi hiện nay tiến tới dân chủ, nền
dân chủ Ấn Độ là do một liên minh của giới tinh hoa chi phối gồm ba
nhóm chính: giới chức nghiệp đô thị, những người đã sáng lập phong trào
Quốc Đại vào năm 1885; cộng đồng doanh nghiệp Ấn Độ trong thương mại và
công nghiệp; và tầng lớp địa chủ nông thôn. Quần chúng nông dân nghèo
ủng hộ cuộc đấu tranh của liên minh tinh hoa để giành độc lập và dân
chủ; họ tập hợp đằng sau Gandhi, một nhân vật lãnh đạo vĩ đại, người có
vai trò thiết yếu gắn kết liên minh giữa các nhóm tinh hoa quyền lực và
quần chúng lao động nghèo khổ. Tuy nhiên, sự ủng hộ của những người nông
dân nghèo đã không thực sự làm đảo lộn tầng lớp địa chủ nông thôn.
Trong viễn kiến chính trị của Gandhi về tương lai của làng quê Ấn Độ
không có mối đe dọa nào đối với địa vị của giới địa chủ giàu có ở nông
thôn, và chính tầng lớp địa chủ nông thôn, chứ không phải những người
nông dân không có đất đai, là người kiểm soát tổ chức Quốc Đại ở cấp địa
phương.48
Chúng
ta đã thấy rằng sự tiếp tục thống trị của giới tinh hoa quyền lực trong
nền dân chủ Ấn Độ đã hình thành và thiết lập nên giới hạn của những gì
có thể đạt được về phát triển kinh tế. Quá trình phát triển kinh tế chủ
yếu là phục vụ lợi ích của các nhóm tinh hoa trong liên minh thống lĩnh
này. Tôn trọng lợi ích của giới tinh hoa đã cản trở khả năng của nền dân
chủ Ấn Độ trong việc huy động nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế và cải
thiện phúc lợi xã hội thông qua cải cách cơ bản trong nông nghiệp và
những cải cách khác.49
Trong
Chương 3, sự thống trị của giới tinh hoa được trình bày như là một đặc
điểm quan trọng của nhiều quá trình hiện tại khi thay đổi chế độ. Người
ta phải lo ngại rằng các chế độ như vậy không sẵn sàng thực hiện cải
cách thực sự để giải quyết số phận của những công dân nghèo. Trong bối
cảnh của Ấn Độ với hơn năm mươi năm kinh nghiệm của nền dân chủ do giới
tinh hoa chi phối, những lo ngại như vậy là hoàn toàn có cơ sở; Ấn Độ đã
phát triển kinh tế cả về tăng trưởng và phúc lợi, nhưng nhìn chung quá
trình này đem lại rất ít quyền lợi cho quần chúng lao động nghèo.
Nhưng
quan trọng là phải nhấn mạnh một điểm khác đã được nêu trong Chương 2:
Dân chủ mang lại sự không chắc chắn ở chừng mực nào đó trong tiến trình
chính trị. Nó mở lối cho quần chúng tạo áp lực lên những người cai trị.
Thậm chí những nền dân chủ chi phối bởi giới tinh hoa có thể được thúc
đẩy theo hướng có những biện pháp cải cách hiệu quả hơn; nói cách khác,
chúng có thể biến đổi thành chế độ dân chủ xã hội. Dân chủ xã hội là chế
độ mà trong đó các liên minh chính trị dựa trên nền tảng rộng rãi hơn
tiến hành cải cách xã hội theo định hướng phúc lợi. Costa Rica là một ví
dụ rõ ràng về trường hợp này.
Chế
độ dân chủ Costa Rica dựa trên các hiệp ước chính trị giữa các phe phái
tinh hoa. Ba nhóm chính trong liên minh thống trị ở Costa Rica là tầng
lớp tinh hoa quyền lực trong nông nghiệp xuất khẩu và công nghiệp (bao
gồm cả các nhà đầu tư nước ngoài) và các thành viên của bộ máy hành
chính nhà nước.50 Họ
chia sẻ những lợi ích của mô hình phát triển dựa vào nông nghiệp xuất
khẩu và thúc đẩy công nghiệp hóa và vai trò quan trọng của nhà nước
trong một số lĩnh vực. Như vậy nông nghiệp xuất khẩu được chính phủ
không ngừng hỗ trợ, mức đóng thuế khá khiêm tốn, và các biện pháp cải
cách ruộng đất không phải là mối đe dọa. Mặc dù các nhà tư bản công
nghiệp đã phải chấp nhận rằng không thể tái cấu trúc nông nghiệp theo
yêu cầu cụ thể của công nghiệp hóa, họ nhận được rất nhiều hỗ trợ về mặt
bảo hộ của nước ngoài, biểu thuế thấp cho các đầu vào, miễn giảm thuế,
và sự giúp đỡ toàn diện về cơ sở hạ tầng từ khu vực công. Bộ máy hành
chính được phát triển mạnh mẽ hơn thông qua việc mở rộng nhanh chóng các
thiết chế đa dạng trong khu vực công, điều này đã tạo ra một cơ sở vững
chắc để từ đó có thể thương lượng đạt được lợi ích hơn nữa từ nhà nước.
Theo
nghĩa này, chế độ dân chủ Costa Rica có thể được xem như là “quyền
thống soát dấu mặt (a masked hegemony) của các nhóm tinh hoa cạnh tranh,
những phe phái rõ ràng đã chấp nhận tôn trọng lợi ích của nhau.”51 Các
chính sách đề ra dựa trên sự cân bằng giữa các nhóm quyền lực khác nhau
tôn trọng lợi ích cơ bản của nhau. Vì vậy các chương trình phúc lợi
được duy trì trong giới hạn mà các nhóm lợi ích chiếm ưu thế chấp nhận.
Các chương trình xã hội triệt để nhằm thay đổi cơ cấu, cũng như các
chính sách kinh tế có thể gây đe dọa nghiêm trọng đối với bất kỳ phe
phái nào cũng đều được ngăn ngừa. Kết quả là cải thiện phúc lợi ở Costa
Rica được dựa trên cơ sở thiếu vững chắc của một nền kinh tế nông nghiệp
xuất khẩu è cổ gánh một khoản nợ nước ngoài (và ngày càng tăng).
Tuy
vậy, trong phạm vi những hạn chế này, các liên minh thống trị ở Costa
Rica vẫn ủng hộ chính phủ để thúc đẩy các chương trình phúc lợi đáng kể.
Như thể hiện trong Bảng 5.3 dưới đây, những thành tựu tổng thể của đất
nước này khá ấn tượng về mặt phúc lợi, trong khi những thành tựu tăng
trưởng kinh tế thì bình thường hơn. Cần lưu ý rằng những số liệu bình
quân đưa ra trong Bảng 5.3 che giấu sự tồn tại của một nhóm khá lớn
người dân sống dưới đáy xã hội mà đời sống ít được cải thiện hơn nhiều.
Mặc dù có rất ít người ở mức độ thực sự chết đói, theo một ước tính từ
năm 2006 tỷ lệ dân số sống ở mức hầu như chỉ đủ để tồn tại là 22 phần
trăm.52 Phần lớn những người này là những nông dân không có đất hoặc dân nghèo thành thị sống trong những khu ổ chuột của thành phố.
BẢNG 5.3 Phúc lợi và tăng trưởng ở Costa Rica
(Vui lòng download file để xem bảng)
Mặc
dù vậy, chế độ dân chủ thống trị bởi giới tinh hoa của Costa Rica đã
khá thành công về mặt tăng trưởng phúc lợi. Có một số yếu tố giải thích
tại sao Costa Rica đạt được thành tựu này.
Trước
hết, giai cấp thống trị ở Costa Rica trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20
khác biệt so với các nước Mỹ Latinh khác. Costa Rica không có chế độ để
người Anh-Điêng và nô lệ nằm dưới sự cai quản của tầng lớp địa chủ nông
thôn; người nông dân sống độc lập, và tầng lớp lao động nông thôn được
tự do không bị các mối quan hệ phong kiến ràng buộc với các ông chủ
nông thôn.
Hai
là, tầng lớp thống trị của những ông trùm cà phê ủng hộ cho các giá trị
tự do của tự do báo chí, tự do tín ngưỡng và giáo dục công. Luật về
giáo dục bắt buộc, miễn phí đã được thông qua vào năm 1884, và trình độ
học vấn của người dân kết hợp với việc tranh luận công khai đã mở đường
cho sự hình thành một loạt các nhóm và hiệp hội, là những tổ chức đã đưa
những đòi hỏi của người dân ra trước hệ thống chính trị.53
Ba
là, nền dân chủ thành lập sau năm 1948 này nổi tiếng về các cuộc bầu cử
công bằng và trung thực trong một hệ thống chính trị hướng tới thương
lượng và thỏa hiệp. Hoàn toàn trái ngược với các nước láng giềng Trung
Mỹ, Costa Rica đã giải tán quân đội của mình vào năm 1949.
Costa
Rica chứng tỏ rằng các chế độ dân chủ do giới tinh hoa lãnh đạo không
phải bao giờ cũng kém thành công về lĩnh vực phúc lợi như Ấn Độ. Các chế
độ này vẫn có khả năng chuyển đổi, hướng tới việc đáp ứng nhu cầu của
quần chúng nhân dân ở mức độ cao hơn. Nhưng nền tảng chính trị của Costa
Rica lại có những đặc điểm độc đáo cho phép nó đi theo hướng đó. Các
nguyên tắc bình đẳng của liên minh thống trị đã dẫn đến một môi trường
chính trị và xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các lực
lượng quần chúng ở giai đoạn đầu. Những yếu tố này tạo cơ sở cho các
chính sách phúc lợi và việc hình thành “một hệ thống dân chủ tự do ổn
định độc nhất vô nhị ở Mỹ Latinh.”54
Như
phần nghiên cứu tình huống này đã cho thấy, các chế độ dân chủ chi phối
bởi giới tinh hoa có thể giải quyết được các vấn đề phúc lợi xã hội.
Đáng tiếc là trong thế giới thứ ba có rất ít nền dân chủ do giới tinh
hoa thống trị có điều kiện tương tự như những điều kiện thiết yếu đã
mang lại kết quả này cho Costa Rica. Ở Đông Âu, các chế độ dân chủ xã
hội có triển vọng tốt đẹp hơn, bởi vì các nhóm quần chúng nhân dân được
tổ chức tốt hơn và có khả năng làm giới lãnh đạo phải lắng nghe tiếng
nói của họ trong quá trình chính trị.55
Nguồn: Georg Sørensen, “Domestic Consequences of Democracy: Growth and Welfare?”, in G. Sørensen, Democracy and Democratization: Processes and Prospects in a Changing World, (Philadenphia: Westview Press, 2008), pp. 99-130.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét