Trần
Quang (gt)
Nga
có những lợi thế riêng trong việc giải quyết vấn đề Triều Tiên. Sự hiện
diện của Nga trong vai trò một bên hòa giải tiềm năng có thể là hữu
ích, nhưng với điều kiện Bắc Triều Tiên chấp nhận và Mỹ - Nga phải nhất
trí cao về một mẫu số chung trong vấn đề Triều Tiên: phi hạt nhân hóa.
Kể
từ sau khi có được vùng đất mà hiện giờ là phần phía Nam của miền Viễn
Đông Nga vào nửa sau thế kỷ 19, Nga đã là một bên liên quan có lợi ích
chủ yếu trong các vấn đề trên bán đảo Triều Tiên. Trong thời kỳ đế chế
Sa hoàng, St. Petersburg coi bán đảo Triều Tiên là một quân tốt trong
ván cờ của họ với các đế quốc hùng mạnh phương Tây và Nhật Bản; Stalin
sử dụng bán đảo Triều Tiên như một công cụ để chiến đấu với “chủ nghĩa
đế quốc toàn cầu”. Ngược lại, nước Nga đương đại không tìm cách thống
trị bán đảo này hay sử dụng nó cho việc bành trướng mang màu sắc đế quốc
chủ nghĩa sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, Moskva có
những lợi ích quan trọng ở bán đảo Triều Tiên và quyết tâm bảo đảm rằng
họ là một thế lực không thể bị bỏ qua trên bán đảo và trong khu vực Đông
Bắc Á rộng lớn hơn. Việc duy trì các mối liên kết với Triều Tiên là một
thành phần cốt yếu trong chiến lược của Nga nhằm duy trì vị thế của một
bên tham gia không thể thiếu ở Đông Bắc Á.
Ở
một mức độ đáng kể, Liên Xô đã tạo nên Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên. Nguồn gốc chung giải thích một số sự tương đồng vẫn tồn tại giữa
hai nước. Ngoài ra, giữa hai nước còn có một loạt mối quan hệ kinh tế,
đặc biệt là xuất khẩu năng lượng của Nga sang Triều Tiên, nhập khẩu lao
động Triều Tiên vào Nga, và việc Nga sử dụng cảng Rajin của Triều Tiên.
Nga cũng vẫn là nước duy nhất ngoài Trung Quốc cung cấp cho Triều Tiên
các liên kết vận tải và viễn thông thường xuyên - qua đường hàng không,
đường sắt, đường biển và Internet - kết nối quốc gia bị cô lập này với
thế giới bên ngoài. Cùng với nhau, những sự trao đổi thương mại và liên
kết cơ sở hạ tầng như vậy tạo nên ảnh hưởng đòn bẩy đáng kể mà Moskva có
thể sử dụng đối với Triều Tiên, khi và nếu họ quyết định làm như vậy.
Điều quan trọng là các nhà ngoại giao và các học giả Liên Xô/Nga đã có
khả năng tiếp cận Triều Tiên thường xuyên trong suốt 7 thập kỷ, tích lũy
được một kho tàng rộng lớn những hiểu biết tinh thông về quốc gia bí
mật này.
Chỉ
cách đây vài năm, Nga có thể đã được gán nhãn một cách thích hợp là
“bên tham gia bị lãng quên” trên bán đảo Triều Tiên. Năm 2017, thực tế
đã không còn như vậy nữa. Nga đã đặc biệt coi trọng việc trở lại với vai
trò bên tham gia trung tâm trong chính trị Triều Tiên. Về kinh tế, Nga
đã thể hiện sự sẵn lòng khởi động các dự án thương mại mới với Triều
Tiên, chẳng hạn như mở một tuyến phà hoặc cung cấp cho Triều Tiên kết
nối Internet, thậm chí bất chấp sự thắt chặt các biện pháp trừng phạt
quốc tế chống lại Bình Nhưỡng. Về chính trị, Moskva đã trở thành một
kiểu người ủng hộ lớn tiếng nhất của Triều Tiên, lên án những hành động
khiêu khích hạt nhân và tên lửa của nước này, nhưng đồng thời thể hiện
sự thấu hiểu những động cơ buộc Bình Nhưỡng theo đuổi vũ khí hạt nhân.
Về ngoại giao, Nga đã bắt đầu hăng hái đưa ra sự giúp đỡ mang tính hòa
giải cho việc giải quyết cuộc khủng hoảng trên bán đảo, chẳng hạn như
thông qua lộ trình 3 giai đoạn do Nga đề xuất và được Trung Quốc hậu
thuẫn. Dù Moskva được nhìn nhận như một bên tham gia có tính xây dựng
trên bán đảo hay một “kẻ phá hoại”, thì giờ đây không thể phớt lờ ảnh
hưởng đòn bẩy gia tăng của Nga. Chính Tổng thống Mỹ Donald Trump đã thừa
nhận điều này, cho rằng với sự giúp đỡ của Nga, tình hình Triều Tiên
“sẽ được giải quyết một cách dễ dàng hơn”.
Trật tự các lợi ích của Nga trong cuộc khủng hoảng Triều Tiên
Trong
bài toàn hóc búa về Triều Tiên, hành vi của Nga được xác định bởi một
hỗn hợp phức tạp các động cơ, lợi ích và yếu tố. Có thể phân tích những
điều quan trọng nhất trong số đó như sau:
Phi hạt nhân hóa
Moskva
miễn cưỡng chấp nhận một Triều Tiên sở hữu hạt nhân. Nga không cảm thấy
bị đe dọa trực tiếp bởi các vũ khí hạt nhân của Kim Jong-un. Tuy nhiên,
việc Triều Tiên tiếp tục hạt nhân hóa - và phản ứng dây chuyền của sự
phổ biến theo chiều ngang mà điều này có thể kích động ở Đông Bắc Á và
vượt ra ngoài - chắc chắn sẽ làm giảm giá trị kho vũ khí hạt nhân của
chính Nga, vốn được người Nga coi là một thuộc tính thiết yếu của vị thế
nước lớn và sự đảm bảo tối thượng cho an ninh quốc gia của đất nước họ.
Việc Triều Tiên cho nổ cái mà nước này khẳng định là một quả bom nhiệt
hạch hôm 3/9/2017 dường như đã thuyết phục Moskva rằng chương trình vũ
khí hạt nhân của Bình Nhưỡng tiên tiến hơn so với suy nghĩ trước đây của
họ, với việc chính Tổng thống Putin công khai thừa nhận rằng Triều Tiên
sở hữu bom nhiệt hạch.
Tuy
vậy, cam kết của Nga đối với việc không phổ biến vũ khí hạt nhân, dù là
một nhân tố chính trong chính sách Triều Tiên của nước này, không phải
là một đòi hỏi cấp thiết tuyệt đối và cần được điều chỉnh cân bằng với
các lợi ích khác của Moskva, chẳng hạn như thái độ miễn cưỡng làm suy
yếu chế độ Bình Nhưỡng và chống đối trước sự bá quyền của Mỹ. Việc Nga
chấp nhận trên thực tế không chỉ một Triều Tiên sở hữu hạt nhân, mà còn
việc trang bị hạt nhân cuối cùng của Nhật Bản và Hàn Quốc không phải là
không thể hiểu được, thậm chí càng dễ hiểu hơn nếu vũ khí hạt nhân khiến
cho Tokyo và Seoul độc lập hơn khỏi Washington và do đó làm suy yếu ưu
thế của Mỹ ở Đông Bắc Á. Nga cuối cùng sẽ học cách sống chung với các
quốc gia hạt nhân láng giềng ở Đông Bắc Á, giống như khi nước này thích
nghi với một Trung Quốc sở hữu hạt nhân theo chủ nghĩa Mao Trạch Đông
vào những năm 1960 và 1970, mặc dù quan hệ giữa Moskva và Bắc Kinh khi
đó tồi tệ hơn nhiều so với các vấn đề hiện tại giữa Moskva và Tokyo.
Ngăn chặn chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên
Khi
xét đến sự gần gũi của Nga với bán đảo Triều Tiên, việc ngăn chặn một
cuộc xung đột vũ trang lớn ở đó là lợi ích rõ ràng của nước này. Nguy cơ
Nga sẽ phải trực tiếp chịu đựng những hành động thù địch tiềm tàng là
tương đối thấp. Những nguy cơ này bao gồm việc bị một tên lửa bay lạc
đánh trúng hoặc bị ô nhiễm bụi phóng xạ từ các vụ nổ hạt nhân và các cơ
sở hạ tầng nguyên tử bị phá hủy. Hướng gió và dòng biển thịnh hành bảo
vệ miền Viễn Đông Nga khỏi các đám mây phóng xạ và bức xạ qua đường nước
từ bán đảo. Khác với Trung Quốc, Nga khó có khả năng đối mặt với một
cuộc di cư tị nạn quy mô lớn từ Triều Tiên, vì hai nước được ngăn cách
bởi một con sông, và đường biên giới ngắn được bảo vệ nghiêm ngặt. Những
nguy cơ quan trọng nhất đối với Nga có lẽ là về kinh tế. Nền kinh tế
miền Viễn Đông Nga phụ thuộc một cách quyết định vào các liên kết với
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, và sẽ phải chịu một đòn giáng mạnh
trong trường hợp có sự gián đoạn nghiêm trọng các hoạt động kinh tế ở
Đông Bắc Á. Hơn nữa, toàn bộ nền kinh tế Nga có thể phải chịu thiệt hại
nếu Đông Bắc Á, một trong những đầu tàu chính của nền kinh tế thế giới,
bị phá hủy bởi một cuộc chiến tranh lớn có thể dẫn tới sự suy thoái toàn
cầu và sự sụp đổ của các thị trường hàng hóa.
Việc tận dụng cuộc khủng hoảng Triều Tiên như một con bài thương lượng đối với Mỹ
Ở
Washington có sự nghi ngờ ngày càng gia tăng rằng các nỗ lực của Nga
nhằm nâng cao vai trò ngoại giao của nước này trong cuộc khủng hoảng
Triều Tiên là nhằm có được ảnh hưởng đòn bẩy chống lại Mỹ. Nếu Moskva có
thể tự đặt mình vào vai trò một bên tham gia quan trọng ở Triều Tiên,
họ có thể sử dụng điều này như một con bài thương lượng ở các lĩnh vực
khác. Điện Kremlin chưa bao giờ liên kết một cách rõ ràng tiềm năng hỗ
trợ của họ trong vấn đề Triều Tiên với những sự nhượng bộ của Mỹ trong
các vấn đề quan trọng đối với Moskva, chẳng hạn như vấn đề khu định cư ở
miền Đông Ukraine hay việc loại bỏ các biện pháp trừng phạt chống Nga.
Tuy nhiên, điều được hiểu ngầm là Washington khó có thể mong đợi sự hợp
tác nhiệt tình từ phía Nga trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng Triều
Tiên chừng nào quan hệ Mỹ-Nga vẫn còn thù địch, khi quan hệ này đã rơi
xuống mức thấp nhất kể từ đầu những năm 1980.
Hoạt động chính trị trong quan hệ gần giống liên minh với Trung Quốc
Trong
việc theo đuổi hoạt động ngoại giao với Triều Tiên, Nga đã cộng tác
chặt chẽ với Trung Quốc. Mặc dù các lợi ích của Nga liên quan đến Triều
Tiên không giống với của Trung Quốc, nhưng có đủ sự chồng chéo giữa hai
nước để thiết lập sự hợp tác có hiệu quả. Trong cuộc gặp cấp cao giữa
Putin và Tập Cận Bình ngày 4/7/2017, hai bên đã đưa ra một cách tiếp cận
thống nhất đối với cuộc khủng hoảng trên bán đảo Triều Tiên.
Nga
và Trung Quốc chắc chắn không ưa gì viễn cảnh về một Triều Tiên được
trang bị vũ khí hạt nhân. Putin và Tập Cận Bình không hề đồng tình với
Kim Jong-un, người công khai coi thường không chỉ Washington, mà cả Bắc
Kinh và Moskva. Tuy nhiên, ác cảm của Nga và Trung Quốc với Kim Jong-un
và các vũ khí hạt nhân của ông này bị che khuất bởi sự thù địch mà họ
cùng chia sẻ đối với điều mà họ hiểu là những đòi hỏi bá quyền của Mỹ.
Sự cộng tác Nga-Trung ở Đông Bắc Á chỉ là một yếu tố của “quan hệ đối
tác chiến lược toàn diện” của hai nước này mà, dưới thời Trump, chỉ phát
triển theo hướng chặt chẽ hơn. Như Gilbert Rozman đã chỉ ra, Triều Tiên
là bài kiểm tra chủ yếu của tam giác chiến lược Mỹ-Trung-Nga ở châu Á,
và Nga đã đứng về phía Trung Quốc. Moskva không có khả năng làm bất kỳ
điều gì trên bán đảo đi ngược lại các lợi ích an ninh cơ bản của Bắc
Kinh. Điện Kremlin biết rõ rằng bán đảo Triều Tiên có ý nghĩa sống còn
đối với an ninh của Trung Quốc và thừa nhận rằng rủi ro của Bắc Kinh
trên bán đảo Triều Tiên cao hơn đáng kể so với của Moskva. Đổi lại, Bắc
Kinh được kỳ vọng sẽ thừa nhận các lợi ích của Nga trong các lĩnh vực
được Moskva quan tâm tột bậc, chẳng hạn như Ukraine, Trung Á và Trung
Đông.
Uy tín quốc tế và tư thế nước lớn
Hành
vi của Nga trong cuộc khủng hoảng Triều Tiên cũng được cổ vũ bởi những
cân nhắc về uy tín và vị thế nước lớn. Như Alexander Gabuev đã lưu ý:
“Việc tìm kiếm sự công nhận và uy tín quốc tế đã trở thành một sự thúc
đẩy then chốt đối với chính sách đối ngoại của Nga trong nhiệm kỳ của
Putin. Bất kỳ vấn đề quốc tế chủ yếu nào cũng được Điện Kremlin coi là
một cơ hội để ngồi cùng bàn với các bên tham gia chủ chốt khác trên vũ
đài toàn cầu, điều cho thấy vị thế quốc tế của Nga như một trong những
nhà lãnh đạo của cộng đồng quốc tế”. Ngoài niềm tự hào nước lớn, Nga tha
thiết muốn được cộng đồng quốc tế coi là một bên tham gia có tính xây
dựng và có trách nhiệm, rằng sự tham gia của nước này góp phần vào việc
giải quyết một trong những cuộc khủng hoảng quốc tế nguy hiểm nhất trong
thời kỳ hiện đại.
Việc theo đuổi các lợi ích kinh tế
Như
đã đề cập ở phần trước, một cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên sẽ
giáng một đòn vào nền kinh tế Nga. Ngược lại, việc giải quyết vấn đề
bán đảo đang mục ruỗng có khả năng đem lại cho Nga những lợi ích kinh tế
đáng kể. Thứ nhất, các biện pháp trừng phạt đối với Triều Tiên sẽ được
loại bỏ, cho phép Nga tiến hành hoạt động thương mại trên quy mô đầy đủ
với nước láng giềng của mình. Điều thậm chí còn quan trọng hơn là việc
làm dịu bớt những căng thẳng trên bán đảo sẽ khiến cho việc thực hiện
các siêu dự án “3 bên” mà Moskva đã thúc đẩy từ lâu trở nên khả thi,
trong đó trên hết là việc kết nối tuyến đường sắt xuyên bán đảo Triều
Tiên với tuyến đường sắt xuyên Siberia của Nga và việc xây dựng đường
ống xuyên bán đảo Triều Tiên cung cấp khí đốt tự nhiên của Nga cho miền
Nam và miền Bắc bán đảo. Nga phần nào được khuyến khích bởi thực tế rằng
không giống như hai chính quyền bảo thủ trước, chính quyền của Tổng
thống Moon Jae-in coi trọng việc hỗ trợ cho các dự án này.
Sự tuân thủ nguyên tắc chủ quyền và sự phản đối việc thay đổi chế độ
Ác
cảm của Nga đối với bất kỳ động thái nào có thể làm suy yếu chế độ ở
Bình Nhưỡng được giải thích không chỉ bởi mong muốn giữ Triều Tiên như
một đối trọng với sự bá quyền của Mỹ ở Đông Bắc Á, mà còn bắt nguồn từ
các khuynh hướng mang tính quy chuẩn của Moskva. Nga coi quốc gia có chủ
quyền là nền tảng chính của trật tự quốc tế, và như một vấn đề nguyên
tắc, bác bỏ sự can thiệp vào công việc nội bộ của các nước với mục đích
thay đổi chế độ. Nga hầu như không đồng tình với chế độ của Kim, nhưng
nguyên tắc về chủ quyền và việc không can thiệp bên ngoài là tối quan
trọng.
Việc thúc đẩy một trật tự khu vực mới ở Đông Bắc Á
Lập
trường của Nga về Triều Tiên và về tương lai của trật tự địa chính trị ở
Đông Bắc Á có thể có vẻ giống với lập trường của Trung Quốc ở chỗ nó
không chấp nhận sự bá quyền tiếp tục của Mỹ. Tuy nhiên, có một sự khác
biệt cốt yếu. Mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc là thay thế sự thống trị
chiến lược của Mỹ ở Đông Á bằng sự thống trị của riêng mình. Đối với
Nga, sự ưu việt của Bắc Kinh trong khu vực cũng không được chấp nhận
chẳng khác gì sự ưu việt của Washington. Điều mà Nga muốn là một hệ
thống cán cân quyền lực mang tính phối hợp và đa cực, với Nga đóng vai
trò một trong các bên liên quan then chốt của nó. Nga tiếp tục ủng hộ
nối lại Đàm phán 6 bên, vẫn là người ủng hộ có lẽ là nồng nhiệt nhất các
cuộc đàm phán này trong số 6 nước và coi chúng là cơ chế thích đáng
nhất để đạt được một giải pháp toàn diện và lâu dài cho vấn đề hạt nhân
của Triều Tiên. Hơn nữa, Moskva coi Đàm phán 6 bên là bước đầu cho việc
thiết lập một thể chế kiểu phối hợp các cường quốc phụ trách về an ninh
Đông Bắc Á.
Tương lai của bán đảo Triều Tiên
Nga
không coi sự thống nhất nhanh chóng bán đảo Triều Tiên là điều đáng
mong muốn hay khả thi. Tuy vậy, trong dài hạn, Nga sẽ hoan nghênh sự
xuất hiện của một nhà nước thống nhất trên bán đảo Triều Tiên, với điều
kiện quốc gia thống nhất này hoàn toàn độc lập và không phụ thuộc vào
bất kỳ nước lớn nào. Trong tư duy chiến lược của Moskva, một bán đảo
Triều Tiên thống nhất và có chủ quyền đầy đủ sẽ góp phần vào cán cân
quyền lực đa cực ở Đông Bắc Á. Sự ưu tiên thống nhất bán đảo Triều Tiên,
dù là một triển vọng dài hạn, làm nên sự khác biệt của Nga so với Trung
Quốc và Nhật Bản, vốn hầu như không hưởng lợi gì từ sự nổi lên của một
nhà nước thống nhất vững mạnh trên biên giới của họ. Đối với Bắc Kinh,
việc thu hút một bán đảo Triều Tiên thống nhất vào trong phạm vi ảnh
hưởng của họ sẽ khó khăn, thậm chí bất khả thi. Đối với Tokyo, một bán
đảo Triều Tiên thống nhất và hùng mạnh có thể đồng nghĩa với một sự kình
địch mới, bị những ký ức lịch sử tiêu cực làm cho trầm trọng hơn. Mỹ sẽ
ưa thích một bán đảo Triều Tiên thống nhất trong liên minh với
Washington. Tuy nhiên, về lâu dài, việc Mỹ coi trọng một bán đảo Triều
Tiên không liên kết là điều có thể hiểu được, đặc biệt nếu Mỹ chuyển
sang chiến lược lớn cân bằng ngoài nước. Điều này dẫn đến khả năng có sự
hội tụ các lợi ích của Nga và Mỹ về tương lai của bán đảo Triều Tiên.
Đối
với Nga, trật tự ưu tiên của các lợi ích nói trên là “động” chứ không
“tĩnh”. Đặc biệt, trước năm 2014, trước khi cuộc khủng hoảng Ukraine
diễn ra, việc sử dụng Triều Tiên như một con bài thương lượng khi đối
mặt với Mỹ hầu như không nằm trong nghị trình của Điện Kremlin. Giờ đây,
đó có thể là một động lực hàng đầu.
Liệu Nga có thể đóng vai trò bên trung gian trung thực trên bán đảo Triều Tiên hay không?
Sự
liền kề tương đối của Nga với bán đảo - so với Trung Quốc và Mỹ - có
những lợi thế của riêng trong việc đối phó với Triều Tiên. Sự thiếu ảnh
hưởng vượt trội là một lý do chủ yếu giải thích vì sao Nga có thể được
coi là một “bên trung gian trung thực” tiềm năng bởi các nhà lãnh đạo
Triều Tiên, những người đặc biệt nghi ngờ bất kỳ quốc gia bên ngoài nào
có các lợi ích rõ ràng trên bán đảo. Nga đủ hùng mạnh để được cân nhắc
một cách nghiêm túc, và việc nước này có quyền lực mềm nào đó trong nội
bộ Triều Tiên có thể là hữu ích, nhưng nước này không có các lợi ích lớn
bất di bất dịch ở đây. Xét đến việc Nga cũng có các xích mích chính trị
với Mỹ và đôi khi có thể bất đồng với Trung Quốc, sự hiện diện của Nga
trong vai trò một bên hòa giải tiềm năng có thể là chấp nhận được đối
với Triều Tiên - đương nhiên, trong trường hợp Chính quyền Triều Tiên
quyết định dựa vào các bên hòa giải thay vì đàm phán trực tiếp với các
đối thủ của họ.
Năng
lực đóng vai trò một bên trung gian trung thực trong việc giải quyết
cuộc khủng hoảng Triều Tiên của Nga ngày càng được thảo luận nhiều trong
giới chính sách Mỹ. Joseph Yun, đặc phái viên Mỹ về Triều Tiên, chỉ ra
rằng “Nga có thể đóng vai trò ngoại giao hữu ích”. Đây cũng là ý kiến
của chuyên gia về Triều Tiên Suzanne DiMaggio: “Nếu nhìn vào tất cả các
bên tham gia chủ yếu trong cuộc khủng hoảng này, bên tham gia duy nhất
có mối quan hệ làm việc với Bình Nhưỡng là Moskva”. Trong cuốn sách năm
2012 của mình, Victor Cha lưu ý về việc Nga thường lập các kế hoạch
ngoại giao chắc chắn để đảm bảo an ninh trên bán đảo và nhấn mạnh rằng
“Moskva hữu ích nhất khi quan hệ giữa các bên khác trong khu vực đang ở
mức hoàn toàn tồi tệ nhất”. Khi xét đến tính nghiêm trọng của tình hình
hiện tại, thời khắc cho sự tham gia của Nga có thể đã đến. Ở mức độ đáng
kể, hiệu lực của ngoại giao Nga đối với Triều Tiên sẽ phụ thuộc vào mức
độ cam kết cá nhân của nhà hoạch định chính sách hàng đầu đất nước,
Vladimir Putin. Đối với việc giải quyết vấn đề bán đảo Triều Tiên, liệu
ông có cho thấy mức độ tận tụy giống như những gì ông đã thể hiện ở
Trung Đông hay không? Có thể là có, nhưng điều này vẫn còn phải chờ
xem.
Có hay không một con đường ngoại giao hướng tới việc giải quyết cuộc khủng hoảng?
Cũng
giống như với nhiều cuộc khủng khoảng khác trong chính trị quốc tế,
những căng thẳng hiện tại trên bán đảo Triều Tiên không chỉ tạo ra những
nguy hiểm rõ ràng, mà còn tạo ra những cơ hội tiềm tàng. Có thể là
không quá tồi tệ khi tình hình trên bán đảo Triều Tiên đã dịch chuyển
khỏi thế bế tắc và có được động lực nào đó khác biệt so với thời kỳ
“kiên nhẫn chiến lược”. Bầu không khí của cuộc khủng hoảng có thể dễ
dàng dẫn tới các tính toán tai hại, nhưng cũng có thể kích thích tư duy
ngoại giao sáng tạo, dẫn tới các giải pháp chấp nhận được đối với tất cả
các bên. Đây là lúc có thể xuất hiện một sự hợp tác Nga-Mỹ có kết quả.
Nga chân thành mong muốn những sự thù địch hiện nay sẽ trở thành khúc
dạo đầu cho một tiến trình ngoại giao có ý nghĩa, dẫn tới một sự thỏa
hiệp thông qua đàm phán. Đã đến lúc giải quyết vấn đề một cách trực
diện. Điều này đồng nghĩa với việc thảo luận và can dự, dù một số giới ở
Washington có thể không ưa thích việc đó đến mức nào đi chăng nữa.
Nga
đã vạch ra một lộ trình để giải quyết các căng thẳng với Trung Quốc.
Sáng kiến chung này đã được đề xuất tới tất cả các đối tác khác trong
Đàm phán 6 bên, trong đó có Mỹ.
Bước
đầu tiên trong lộ trình 3 giai đoạn là “đình chỉ đổi lấy đình chỉ”, có
nghĩa là việc tạm dừng các vụ thử hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên dựa
trên quyết định chính trị tự nguyện của nước này, cùng với cam kết của
Bình Nhưỡng rằng họ sẽ không bao giờ chuyển giao các công nghệ và nguyên
liệu hạt nhân cho các bên tham gia nhà nước và phi nhà nước khác. Đổi
lại, Mỹ và Hàn Quốc sẽ tạm dừng các cuộc tập trận quân sự của hai nước
này hoặc hạn chế quy mô của chúng. Các hình thức “đền bù” khác cũng có
thể được thảo luận.
Phía
Mỹ thận trọng trong việc chấp nhận các bước đi song song này ngay từ
giai đoạn đầu tiên, viện lý do thiếu các nghĩa vụ rõ ràng về phần Triều
Tiên, thiếu cơ chế thẩm tra quy mô đầy đủ, thiếu các biện pháp bảo vệ
trong trường hợp Bình Nhưỡng phá vỡ thỏa thuận, và thiệt hại mà việc
đình chỉ các cuộc diễn tập có thể gây ra đối với tính hợp lệ của liên
minh Mỹ-Hàn. Trong khi đó, việc đình chỉ các cuộc tập trận Mỹ-Hàn có thể
không phải là sự nhượng bộ quan trọng nhất mà Triều Tiên mong muốn hoặc
trông đợi, và nước này có thể muốn hơn các động thái khác của Mỹ, chẳng
hạn như việc thiết lập một kênh đối thoại chính trị nhắm tới mục tiêu
cuối cùng là sự công nhận ngoại giao, việc mở các văn phòng liên lạc,
việc loại bỏ một số biện pháp trừng phạt, việc cung cấp viện trợ kinh
tế,... Để tìm hiểu điều này, cần phải có các cuộc đàm phán trực tiếp
không có điều kiện tiên quyết. Các cuộc đàm phán phải được dựa trên sự
hiểu biết rằng “danh mục” những sự nhượng bộ mà Triều Tiên có thể đưa ra
ngắn hơn nhiều so với của Mỹ. Ngoài ra, một số sự nhượng bộ của Triều
Tiên là không thể đảo ngược, chẳng hạn như việc cho phép tiếp cận các
thông tin nhạy cảm và các cơ sở vì mục đích thẩm tra, chưa nói tới việc
tháo dỡ vật lý các cơ sở hạ tầng hạt nhân và tên lửa. Ngược lại, tất cả
những sự nhượng bộ từ phía Mỹ đều có thể đảo ngược được một cách dễ
dàng: Các cuộc diễn tập quân sự có thể được tiếp tục, các biện pháp
trừng phạt có thể được phục hồi, một hiệp định hòa bình có thể bị hủy
bỏ, sự công nhận ngoại giao có thể bị rút lại...
Đối
với giai đoạn thứ hai, Nga và Trung Quốc đã đề xuất ký kết một loạt văn
kiện song phương: giữa Triều Tiên và Mỹ, Triều Tiên và Hàn Quốc, và có
thể giữa Triều Tiên và Nhật Bản. Các thỏa thuận cần quy định các nguyên
tắc chung của quan hệ hòa bình, chẳng hạn như việc không sử dụng vũ lực.
Các cuộc đàm phán những thỏa thuận này sẽ kéo dài nếu các đối thủ của
Bình Nhưỡng muốn đưa vào đó các vấn đề gây tranh cãi, chẳng hạn như vấn
đề người bị bắt cóc và việc phổ biến vũ khí hạt nhân. Theo các đề xuất
của Nga, vấn đề quan hệ hai miền Nam-Bắc nên được loại trừ khỏi kế hoạch
này và được xử lý bằng một lộ trình riêng biệt. Các cuộc đàm phán song
phương ở giai đoạn này là cần thiết, nhưng một tuyên bố chung về các
nguyên tắc hòa bình và an ninh dựa trên những gì đã được nhóm làm việc
về cơ chế hòa bình và an ninh Đông Bắc Á thuộc Đàm phán 6 bên nhất trí
vào năm 2007 sẽ là đầy đủ.
Giai
đoạn thứ ba được vạch ra trong sáng kiến Nga-Trung là Đàm phán 6 bên
chính thức, dành riêng cho việc tạo lập một hệ thống an ninh Đông Bắc Á -
mà trong đó các vấn đề phi hạt nhân hóa, các biện pháp trừng phạt đa
phương và đơn phương, các mối đe dọa quân sự và các biện pháp xây dựng
lòng tin, sự hiện diện quân sự của nước ngoài và các vấn đề khác sẽ được
thảo luận. Nó không nên là một sự tiếp nối của hoạt động trong giai
đoạn 2003-2008, mà phải là một nỗ lực hoàn toàn mới với một sự ủy thác
rộng rãi: Điểm khác biệt chủ yếu là nghị trình không nên bị giới hạn
trong việc thảo luận vấn đề hạt nhân, mà cần bao gồm các vấn đề trong
một phạm vi rộng các vấn đề liên quan đến việc đạt được an ninh toàn
diện trên và xung quanh bán đảo Triều Tiên.
Tiến
trình này có thể bắt đầu bằng các cuộc đàm phán trực tiếp giữa Mỹ và
Triều Tiên về các thể thức mới này. Đồng thời, cần khởi động đối thoại
hai miền Nam-Bắc về việc khôi phục sự hợp tác và dỡ bỏ di sản nghèo nàn
mà một thập kỷ của sự cai trị của các chính quyền bảo thủ ở miền Nam bán
đảo đã để lại. Tuy nhiên, sẽ là vô nghĩa nếu hướng cuộc thảo luận giữa
hai miền tập trung vào vấn đề hạt nhân, vì Hàn Quốc không ở vào vị thế
cung cấp được cho Triều Tiên bất kỳ bảo đảm an ninh nào. Ngoài ra, một
cuộc thảo luận chung về các dàn xếp an ninh đa phương có thể có ở Đông
Bắc Á có thể được tiến hành trong nhóm làm việc có liên quan thuộc Đàm
phán 6 bên mà có thể được tái lập như một vụ hoặc một văn phòng tổ chức
dành cho các cuộc đàm phán nhiều bên trong tương lai về an ninh ở Đông
Bắc Á.
Nếu
các bước đi sơ bộ như vậy thành công, tiến trình cấp cao chính thức có
thể được khởi động bằng một cuộc gặp mang tính biểu tượng giữa các ngoại
trưởng của 6 quốc gia cộng thêm các đại diện toàn quyền của Liên hợp
quốc và Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế bên lề Đại hội đồng Liên
hợp quốc, có thể với sự hiện diện của một số nhà lãnh đạo quốc gia. Về
lâu dài, các giải pháp chính trị và ngoại giao mà Nga ủng hộ không phải
là bất khả thi. Điều kiện chính là các đối thủ cần đối mặt với hiện thực
và dựa vào các thực tế rõ ràng:
+
Washington và Seoul cần tiến tới chấp nhận sự tồn tại của Triều Tiên và
theo đuổi chính sách cùng chung sống thay vì cố gắng làm suy yếu chế độ
ở Bình Nhưỡng.
+ Vấn đề phi hạt nhân hóa phải được trì hoãn cho tới khi cơ chế an ninh toàn diện đã được thiết lập.
+
Hàn Quốc nên từ bỏ những giấc mơ thống nhất bằng cách sáp nhập và học
cách sống chung với một nước láng giềng khó tính, thể hiện thái độ của
một quốc gia trưởng thành và phát triển.
+
Bình Nhưỡng cần thừa nhận thực tế rằng sẽ không bao giờ có hòa bình và
thịnh vượng ở Triều Tiên trừ phi họ từ bỏ chương trình vũ khí hạt nhân
của mình, với điều kiện một chế độ an ninh mới trên bán đảo phải được
thiết lập trước tiên.
Như
vậy không có nghĩa là nói rằng không thể thăm dò và theo đuổi các kế
hoạch chi tiết và các ý tưởng ngoại giao khác. Điều quan trọng là lựa
chọn thay thế cho ngoại giao song phương và đa phương là việc tình hình
xấu đi hơn nữa và một cuộc xung đột quân sự có thể xảy ra.
Các khuyến nghị chính sách cho Nga và Mỹ
Trong
trường hợp Triều Tiên, Nga và Mỹ là các bên tham gia trong cuộc khủng
hoảng nguy hiểm nhất kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Điều may mắn
là trong cuộc đối đầu giằng co này, Moskva và Washington không phải là
các đối thủ trực tiếp, nhưng họ cũng không phải là các đối tác thực sự.
Họ có thể quyết định hợp tác chặt chẽ trong việc giải quyết tình hình,
hoặc họ có thể gây trở ngại cho các nỗ lực của nhau. Trong trường hợp
thứ hai, rủi ro của những tính toán sai lầm sẽ gia tăng nhanh chóng, có
khả năng dẫn tới nguy cơ về một cuộc đụng độ vũ trang giữa các lực lượng
của Mỹ và Nga trên bán đảo. Rõ ràng cần phải tránh một kịch bản như
vậy.
Phải
thừa nhận rằng hiện nay, các lợi ích của Nga và của Mỹ liên quan đến
Triều Tiên có đặc trưng là một số điểm khác biệt đáng kể khiến cho việc
đạt tới một giải pháp ngoại giao toàn diện cho vấn đề này trở nên hết
sức khó khăn. Tuy nhiên, Nga và Mỹ cùng chia sẻ một lợi ích căn bản:
việc không phổ biến vũ khí hạt nhân. Với mẫu số chung cơ bản nhất,
Moskva và Washington cần hợp tác để ngăn chặn khả năng xảy ra sự phổ
biến theo chiều ngang các công nghệ và nguyên liệu hạt nhân của Triều
Tiên, chẳng hạn như các nỗ lực của Triều Tiên hoặc của cá nhân các đại
diện không lương thiện của nước này nhằm bán các thành phần hạt nhân cho
các bên tham gia nhà nước hoặc phi nhà nước khác. Khi xét đến sự tuyệt
vọng ngày càng gia tăng của Triều Tiên do việc thắt chặt các biện pháp
trừng phạt, càng có khả năng Bình Nhưỡng sẽ đánh bạo bán các công nghệ
hạt nhân và tên lửa của mình cho bất kỳ ai sẵn sàng chi trả. Moskva,
Washington và các bên liên quan khác cần đối phó với nguy cơ này mà
không phong tỏa Triều Tiên, vì việc cô lập Triều Tiên về mặt vật lý một
cách cưỡng ép là không thể chấp nhận được đối với Nga (và Trung Quốc).
Cần thiết lập một cơ chế cho các cuộc tham vấn và trao đổi thường trực
giữa Mỹ và Nga về các vấn đề an ninh trên bán đảo Triều Tiên, và chúng
nên tập trung vào vấn đề không phổ biến vũ khí hạt nhân và các mối quan
ngại khác.
Artyom
Lukin là phó giáo sư, phó giám đốc Nghiên cứu Trường Nghiên cứu Khu vực
và Quốc tế, Đại học Liên bang Viễn Đông, Vladivostok, Nga. Ông nhận
bằng tiến sĩ khoa học chính trị Đại học Bang Viễn Đông năm 2002.
Liudmila Zakharova là nhà nghiên cứu cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu
Triều Tiên, Viện Nghiên cứu Viễn Đông, Học viện Khoa học Nga (IFES RAS),
Moscow. Bà nhận bằng tiến sĩ nghiên cứu kinh tế tại Đại học Bang Viễn
Đông năm 2002. Bài viết được đăng trong báo cáo “Vũ khí Hạt nhân và Mối quan hệ Nga – Bắc Triều Tiên”, tr. 64-70, Viện Nghiên cứu Chính sách Đối ngoại (FPRI), Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét