Ánh Liên (VNTB)
4.0
từ ngày Chính phủ ông Nguyễn Xuân Phúc nêu ra đã trở thành khát vọng
đến mức đi đâu và làm gì cũng gắn với 4.0. Thậm chí nhiều học giả, nhà
báo còn đặt ra câu hỏi: làm gì để đón đầu cách mạng công nghiệp 4.0 hay
đầu tư đón đầu cách mạng công nghiệp 4.0.
‘Đi
tắt, đón đầu’ là căn bệnh nan y đối với thể chế và dân tộc, bởi nó từng
kết liễu mục tiêu ngành công nghiệp ôtô; công nghiệp nặng; nền kinh tế
trí thức; nền công nghiệp hóa – hiện đại hóa 2020. Nó là tư tưởng ‘ăn
xổi, ở thì’ khi chưa có những điều kiện cần thiết để bắt kịp một xu
hướng phát triển nào đó.
Và giờ nó lại hiện diện ở 4.0!!
Do
sự lạm phát ‘4.0’, nên vào trong một cuộc hội thảo về nâng cao năng
suất trong bối cảnh công nghiệp hóa vào ngày 11.01.2018, Gs. Trần Văn
Thọ, Thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Chính phủ, Đại học Waseda (Tokyo),
đã nhận xét thẳng thắn: Việt Nam cứ nghĩ tới cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0 cao xa mà có những vấn đề đơn giản chúng ta không làm như muốn rút
ngắn khoảng cách công nghệ với thế giới phải nhập khẩu công nghệ ứng
dụng vào sản xuất.
Cái
nhìn của Gs. Trần Văn Thọ là vô cùng cần thiết, bởi nó dập bớt sự ảo
tưởng của một số đông doanh nghiệp, chính khách liên quan đến sự trở
mình hóa rồng, hóa hổ trong tích tắc, và trở về với nguyên tắc: phát
triển là cả một quá trình. Nếu không nhận thức được nguyên tắc này, thì
ngay lập, Việt Nam sẽ mắc căn bệnh ‘hoang tưởng’ về cách mạng 4.0 –
nhưng đã từng mắc phải ‘bẫy thu nhập trung bình’.
Việt
Nam hiện giờ đã có điều kiện gì cho 4.0? Chưa có bất kỳ thứ gì liên
quan trực tiếp đến nền tảng lẫn chính sách, mà mọi thứ mới dừng ở
‘truyền cảm hứng’ và ‘chỉ đạo’.
Thử nhìn lại các giai đoạn phát triển của lịch sử cách mạng công nghiệp loài người và xem thử Việt Nam ta đang ở đâu.
Xuất
phát của cách mạng công nghiệp là diễn ra vào thế kỷ XVIII – XIX tại
vùng nông thôn ở châu Âu và châu Mỹ, với sự chuyển đổi dụng cụng sản
xuất từ cầm tay hoặc máy móc đơn giản để sang máy móc đặc biệt và nhà
máy sản xuất hàng loạt gắn liền với ngành công nghiệp dệt, sắt động cơ
hơi nước. Sau cách mạng công nghiệp đầu tiên, là cuộc cách mạng về điện
với sự trợ giúp và tác động cực kỳ mạnh mẽ liên quan đến sản xuất (điện
khí hóa, luyện kim). Tiếp đó là cuộc cách mạng kỹ thuật số 3.0 gắn liền
với sử dụng điện tử và CNTT để tự động hóa sản xuất (sản xuất dây chuyền
tự động). Và cuối cùng là cuộc cách mạng 4.0, gắn liền với xu hướng tự
động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất, tích hợp hàng
loạt công nghệ như máy chủ trên mây (cho phép truy cập từ xa ứng dụng và
lưu trữ tài liệu); internet trên mây (sử dụng đám mây để lưu trữ và
đồng bộ hóa quá trình tự động được áp dụng ngay trong vấn đề nhỏ nhất
như hệ thống chiếu sáng và oto tự động).
Nếu
căn cứ khung cách mạng nêu trên, thì Việt Nam vẫn đang dậm châm bền
vững ở giai đoạn 2 của cuộc cách mạng về điện, sản xuất hàng loạt với
dây chuyền lắp ráp. Một số rất nhỏ các doanh nghiệp trong xã hội liên
quan đến sản xuất mới tiệm cận ở giai đoạn 3 về máy tính và sự tự động
hóa trong sản xuất, mà một đặc trưng tiêu biểu là xuất hiện siue nhà máy
(mega factory) với quy trình tự động hóa và có sử dụng robot (như quy
trình sản xuất của tập đoàn Vinamilk).
Tập đoàn Vinamilk sở hữu siêu nhà máy |
Nhiều
quan điểm nhầm lẫn cho rằng, sự phát triển internet tại Việt Nam, gắn
hạ tầng cơ sở viễn thông là dấu hiệu hiện hữu của 4.0, nhưng thực ra,
khi Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn 3G, thì từ năm 2014, một số nước
EU như Anh và Đức đã ký thỏa thuận hợp tác phát triển mạng viễn thông 5G
tốc độ cao. Và khi Việt Nam đang bước đầu triển khai mạng 4G, thì ở
những nước như Mỹ đã dự kiến cuối năm 2018 sẽ tiến hành phủ mạng 5G.
Chưa kể, hạ tầng viễn thông chỉ là một phần trong tổng thể nền công
nghiệp cơ bản và công nghiệp nhẹ trong cả lĩnh vực dân dụng, công
nghiệp, nông nghiệp.
Chính
vì vậy, mà Gs. Trần Văn Thọ mới nhấn mạnh cái gọi là ‘nhập khẩu công
nghệ ứng dụng vào sản xuất’. Nhưng ngay cả khi làm tốt được điều này, nó
cũng chỉ giải quyết được khâu bổ sung tức thời nền tảng cho cuộc cách
mạng khoa học; trong khi phải còn các yếu tố cần thiết khác cho một cuộc
cách mạng như chính sách của Chính phủ (chính sách phát triển và quản
lý phát triển); nguồn nhân lực và thị trường tài chính.
Khi
Việt Nam chưa làm và làm chưa tốt những vấn đề nhỏ nêu trên, thì vĩnh
viễn Việt Nam vẫn ở hệ 2.0, và từ 2.0 không thể thực hiện bước ‘nhảy
vọt’ để sang 4.0.
Trừ sự hoang tưởng và nói cho ‘sang miệng’ - tức phát triển trong tâm trí hơn là thực tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét