Phạm Hưng Quốc - Viet-Studies
Để
có được cách nhìn tổng thể nhất, tác giả xin nhắc lại một luận điểm của
người sáng lập ra Chủ nghĩa cộng sản: Karl Marx viết trong cuốn Tư bản
như sau: Chủ nghĩa tư bản tìm mọi cách tạo giá trị lợi nhuận thặng dư,
chúng không trừ thủ đoạn gì để đạt được giá trị thặng dư cao nhất. Khi
giá trị thặng dư lên tới 70, 80, 100% thì chúng sẽ có những tâm lý điên
loạn đến mức chúng có thể tự treo cổ!! Rất tiếc rằng những người tự nhận
là đệ tử trung thành của chủ nghĩa Marx còn lại trong đội ngũ lãnh đạo
của môt số quốc gia xã hội chủ nghĩa ít ỏi còn sót lại đã tạo ra một thế
hệ lãnh đạo mới, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử nhân loại, đó là tầng lớp tư bản đỏ.
Tầng lớp những người lãnh đạo này mặc dù luôn khoác áo cộng sản hay xã
hội chủ nghĩa nhưng thực chất họ lại có ham muốn làm giàu cho bản thân
một cách cuồng nhiệt nhất. Họ bất chấp những chuẩn mực về đạo đức, sẵn
sàng thực hiện những thủ đoạn từ trắng trợn đến tinh vi để kiếm tiền.
Phương tiện kiếm tiền của họ là “quyền lực”, sự ranh ma tinh quái và cả
sự tàn bạo… Lợi nhuận họ thu về luôn tỉ lệ thuận với những “phẩm chất”
này. Hiện tượng tham nhũng trở nên phổ biến và dần trở thành xu thế, có
tính chất nguyên lý tất yếu của việc hình thành bộ máy cai trị do họ lập
ra mặc dù họ luôn khẳng định “quyết tâm xây dựng một nhà nước của dân,
do dân và vì dân”.
Thực tế đã chứng minh rằng đội ngũ lãnh đạo tại các nước xã hội chủ nghĩa này đã trở thành những kẻ giàu có nhất trong xã hội. Bọn họ giàu có hơn hẳn bất cứ một đội ngũ lãnh đạo nào của các nước tư bản phát triển. Nhóm người này có tâm lý làm giàu như các nhà tư bản chó sói thời hoang dại. Họ núp dưới bóng của chủ nghĩa vô sản nhưng lại hành động như những kẻ điên rồ tham lam tàn bạo nhất. Họ đã tự đặt mình lên trên pháp luật, lũng đoạn pháp luật. Đội ngũ lãnh đạo tại các nước này theo thời gian đã được phân hóa thành nhiều nhóm lợi ích… Các nhóm lợi ích tranh giành xâu xé thậm chí triệt tiêu nhau để vơ vét tiền bạc của cải của đất nước mà chính họ là những người đang giữ cương vị lãnh đạo. Các nhóm lợi ích tại các quốc gia này trong đó có Việt Nam đang có xu hướng phát triển không có giới hạn. Các nhóm lợi ích dùng quyền lực chính trị, tư pháp, hành pháp và cả lập pháp để tranh giành biển thủ, tước đoạt những gì có thể, cho phe nhóm của mình, họ sẵn sàng dùng hàng tỷ đô la ngân sách nhà nước để phục vụ cho các dự án bình phong mà những nhóm lợi ích của họ dựng lên với chiêu bài phát triển kinh tế, phục vụ dân sinh, phục vụ an ninh quốc phòng để thực hiện các hành vi tham ô, tham nhũng. Trên thực tế sự tha hóa này phát triển rất nhanh từ thế hệ lãnh đạo này sang thế hệ lãnh đạo kế tiếp. Thế hệ sau tham lam tàn bạo, táo tợn và tinh vi hơn thế hệ trước. Đây là một thực tế mà tất cả mọi người đều nhận ra. Mọi người trong đó có cả những kẻ tham nhũng đều nhận thức được rằng sự suy thoái này chắc chắn sẽ dẫn tới sự đổ vỡ diệt vong nhanh chóng cho đất nước của họ nhưng lại không ai có đủ dũng khí và khả năng để tìm cách ngăn chặn dòng thác tham nhũng đang cuốn phăng đi tất cả thậm trí cả lương tâm, lương tri… Dòng thác này được hình thành một cách tự phát như một xu thế và là hệ quả tất yếu trong quá trình chuyển đổi từ việc quản lý kinh tế quan liêu bao cấp theo mô hình xã hội chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường.
Thực tế đã chứng minh rằng đội ngũ lãnh đạo tại các nước xã hội chủ nghĩa này đã trở thành những kẻ giàu có nhất trong xã hội. Bọn họ giàu có hơn hẳn bất cứ một đội ngũ lãnh đạo nào của các nước tư bản phát triển. Nhóm người này có tâm lý làm giàu như các nhà tư bản chó sói thời hoang dại. Họ núp dưới bóng của chủ nghĩa vô sản nhưng lại hành động như những kẻ điên rồ tham lam tàn bạo nhất. Họ đã tự đặt mình lên trên pháp luật, lũng đoạn pháp luật. Đội ngũ lãnh đạo tại các nước này theo thời gian đã được phân hóa thành nhiều nhóm lợi ích… Các nhóm lợi ích tranh giành xâu xé thậm chí triệt tiêu nhau để vơ vét tiền bạc của cải của đất nước mà chính họ là những người đang giữ cương vị lãnh đạo. Các nhóm lợi ích tại các quốc gia này trong đó có Việt Nam đang có xu hướng phát triển không có giới hạn. Các nhóm lợi ích dùng quyền lực chính trị, tư pháp, hành pháp và cả lập pháp để tranh giành biển thủ, tước đoạt những gì có thể, cho phe nhóm của mình, họ sẵn sàng dùng hàng tỷ đô la ngân sách nhà nước để phục vụ cho các dự án bình phong mà những nhóm lợi ích của họ dựng lên với chiêu bài phát triển kinh tế, phục vụ dân sinh, phục vụ an ninh quốc phòng để thực hiện các hành vi tham ô, tham nhũng. Trên thực tế sự tha hóa này phát triển rất nhanh từ thế hệ lãnh đạo này sang thế hệ lãnh đạo kế tiếp. Thế hệ sau tham lam tàn bạo, táo tợn và tinh vi hơn thế hệ trước. Đây là một thực tế mà tất cả mọi người đều nhận ra. Mọi người trong đó có cả những kẻ tham nhũng đều nhận thức được rằng sự suy thoái này chắc chắn sẽ dẫn tới sự đổ vỡ diệt vong nhanh chóng cho đất nước của họ nhưng lại không ai có đủ dũng khí và khả năng để tìm cách ngăn chặn dòng thác tham nhũng đang cuốn phăng đi tất cả thậm trí cả lương tâm, lương tri… Dòng thác này được hình thành một cách tự phát như một xu thế và là hệ quả tất yếu trong quá trình chuyển đổi từ việc quản lý kinh tế quan liêu bao cấp theo mô hình xã hội chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường.
Bài
viết này không có ý định đi sâu vào việc phân tích các nguyên nhân cội
rễ cũng như các biến cố lịch sử đã hình thành nên “dòng nước lũ tham
nhũng” có tính đặc thù này mà chỉ định nêu ra một vài nhận định cơ bản
để làm cơ sở nền tảng giúp bạn đọc hiểu thêm những phân tích về diễn
biến trên chính trường tại Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới.
Sự
hình thành các nhóm lợi ích đã làm thay đổi đời sống chính trị tại Việt
Nam ngay từ khi bắt đầu thực hiện quá trình “đổi mới”. Các nhóm lợi ích
luôn tìm cách tranh giành “ hơn thua” với nhau trên chính trường. Quá
trình “đổi mới” tại Việt Nam tất yếu đã đưa tới sự gắn kết chặt chẽ giữa
quyền lực chính trị với quyền lực kinh tế. Tuy rằng mặt tích cực do sự
nghiêp đổi mới mang lại đối với Việt Nam là rõ ràng thậm chí đôi khi là
kỳ diệu không thể phủ nhận được, cụ thể: sức sản xuất được cởi trói một
phần, sức sáng tạo trong xã hội được phát huy, nền kinh tế không ngừng
phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cơ sở hạ tầng, mức sống của
người dân trong xã hội không ngừng được nâng cao, bộ mặt đất nước được
thay đổi toàn diện, vị thế của đất nước được nâng cao trên trường quốc
tế v.v… Song những thành tựu do công cuộc đổi mới mang lại ngày càng bị
hạn chế và dần bị triệt tiêu bởi mặt trái của nó là tệ nạn tham những.
Trước
hết trong lĩnh vực chính trị sự tranh giành giữa những nhóm lợi ích đã
tạo ra một đặc thù trong việc hình thành bộ máy lãnh đạo đất nước mà
trước đây chưa từng xẩy ra là vị trí số 1, vị trí của Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản thay vì phải là những cá nhân xuất sắc nhất, mạnh mẽ nhất nhưng
trên thực tế lại ngược lại. Tại Việt Nam gần hai thập kỷ trở lại đây vị
trí Tổng Bí Thư lại giành cho những người có hình ảnh: nhu mỳ, ba phải,
dĩ hòa vi quý, ít góc cạnh… Rõ ràng đây là những giải pháp tình thế để
tạo sự hòa hoãn mà các nhóm lợi ích đã đi đến thỏa hiệp. Hai nhiệm kỳ
làm tổng bí thư của Nông Đức Mạnh là cơ hội vàng cho các nhóm lợi ích
tại Việt Nam kiếm chác và ăn chia. Sang đến thời của Tổng Bí Thư Nguyễn
Phú Trọng khi các mặt trái của sự lũng đoạn của các nhóm lợi ích tham
nhũng đã bi phơi bầy không thể che giấu nổi, nhưng trong nhiệm kỳ đầu
làm Tổng Bí Thư với phương pháp tư duy và hành động mang nặng tính lý
thuyết giáo điều, cộng với sự hạn chế về sức mạnh quyền lực cả trên lĩnh
vực tài chính lẫn bạo lực cũng như không có phe cánh, nên Nguyễn Phú
Trọng ngoài việc chỉ đưa ra hết nghị quyết này đến nghị quyết khác, trên
thực tế hầu như không làm được gì cụ thể đáng kể nào. Trên chính trường
Nguyễn Phú Trọng trở thành một anh “hề cung đình” bất đắc dĩ. Thực tế
“tập thể” ban lãnh đạo Đảng của ông ta luôn làm vô hiệu hóa các nghị
quyết của đảng và làm ngược với mong muốn của ông ta về các vấn đề mà
đặc biệt là vấn đề nhân sự cốt lõi của đảng. Thực tế này sẽ dẫn tới sự
cáo chung rất nhanh chóng theo cách thức xấu nhất đối với chế độ cộng
sản: Sự việc lên tới đỉnh điểm là tại hội nghị TƯ 6 khóa 11, ông trùm
của những ông trùm tham nhũng và lợi ích nhóm Nguyễn Tấn Dũng đã bi phơi
bầy quá nhiều sai phạm trên rất nhiều phương diện, việc trừng phạt con
người này đã trở thành đòi hỏi của công lý và người dân Việt Nam. Nhưng
đến giờ chót Nguyễn Phú Trọng cùng với “tập thể” Đảng Cộng sản không làm
nổi cái điều tưởng như đương nhiên này, Nguyễn Tấn Dũng vẫn tại vị và
ngạo nghễ thách thức quyền lực của Nguyễn Phú Trọng và đặc biệt thách
thức những nỗ lực chống tham nhũng của Đảng. Thực tế này lần đầu tiên
tại Việt Nam Tổng Bí Thư đã trở thành một anh hề cung đình.
Có
lẽ sự kiện này đã làm cho Nguyễn Phú Trọng phải tự lột xác, vì chỉ có
như vậy thì mới có cơ may cứu Đảng Cộng sản và chế độ do Đảng Cộng sản
lập ra khỏi sụp đổ một cách nhục nhã. Đến nay trên thực tế đã ghi nhận
một số thành công bước đầu trong quá trình tự lột xác này của Nguyễn Phú
Trọng. Bề ngoài ông ta không tỏ ra có bất kỳ một thay đổi đáng kể nào,
vẫn phát ngôn giáo điều, lạc lõng, thái độ lời nói vẫn nhỏ nhẹ nhu mỳ
đến buồn ngủ, nhưng bên trong ông ta cùng một số đội ngũ thân tín của
mình chuẩn bị cho việc loại bỏ con “sâu chúa” bằng “mọi giá” trong đại
hội Đảng Cộng sản lần thứ 12. Cái chữ MỌI GIÁ ở đây được thể hiện là ông
ta đã chấp nhận mọi sự nhân nhượng kể cả việc để cho các đệ tử thân tín
nhất của sâu chúa Nguyễn Tấn Dũng, những trùm tham nhũng được ở lại và
lên chức cao hơn, mặt khác lại để cho môt số người tâm phúc của ông ta
phải về vườn. Tất cả chỉ nhằm tới mục đích loại được “con sâu chúa”
Nguyễn Tấn Dũng. Người ta nhìn thấy ông ta đã trả một cái giá rất đắt để
đạt được muc tiêu này. Một trong những cái giá phải trả là chấp nhận
cho những đệ tử ruột nhất, trung thành nhất của sâu chúa và Bộ Chính trị
và hơn thế nữa còn được đưa vào những vị trí sống còn của bộ máy cầm
quyền. Một thành công nhất cho đến nay trong quá trình “lột xác” của
Nguyễn Phú Trọng là ông ta hành động rất “quyền biến” và khôn ngoan,
biết mình biết ta, trái ngược phong cách giáo điều cứng nhắc, quan liêu
như ông ta vẫn thể hiện. Mặt khác ông ta luôn giữ được bí mật tuyệt đối
phương án hành động của mình, biết đánh hỏa mù, biết dàn trận giả để làm
lạc hướng đối thủ. Để làm được những việc này chắc chắn Nguyễn Phú
Trọng cũng đã thành công bước đầu trong việc xây dựng cho mình một “team
hành động đủ mạnh” Nhưng
cần nhận định rằng sẽ là quá sớm nói đến một sự thành công chắc chắn,
bền vững để ít nhất là đẩy lùi được sự đổ vỡ, hỗn loạn của chế độ hiện
hành trong tương lai gần. Nguyễn Phú Trọng và đồng chí của ông ta phải
hóa giải được các nguy cơ to lớn sau:
1.
Mọi sự thanh trừng, tiễu phạt chỉ thành công khi Nguyễn Phú Trọng đảm
bảo được sự ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và
trật tự xã hội được giữ gìn. Đây là một thực tế rất mong manh tại Việt
Nam hiện nay: đa số các nhân vật có kinh nghiệm trong chính phủ hiện nay
đều đã từng là những đệ tử thân thiết của Nguyễn Tấn Dũng. Chính họ là
những kẻ gây ra các ung nhọt trong nền kinh tế nhưng đồng thời cũng là
những nhà ảo thuật bậc thầy về sự che đậy, biến báo cho những ung nhọt
này. Đinh La Thăng là một trong những nhân vật sáng giá hàng đầu như
vậy. Chỉ cần chính những nhân vật này không tiếp tục che đậy nữa thì
cũng đủ để đất nước rơi vào khủng hoảng về tâm lý, sau đó là vỡ bung
những ung nhọt trong nền kinh tế ở những nơi yếu nhất và nhạy cảm nhất,
rồi lan sang các lĩnh vực khác về kinh tế, tài chính và xã hội. Tất
nhiên khi còn chức quyền hoặc ít ra được hạ cánh an toàn thì những kẻ
tham nhũng còn “ vun đắp” cho chế độ, nhưng khi bị lao lý và truy thu
của cải, tài sản thì tình hình sẽ khác, rất khác. Liệu Nguyễn Phú Trọng
đã chuẩn bị các biện pháp để đối phó hay chưa?
2.
Mục tiêu lớn nhất của chống tham nhũng là lấy lại uy tín cho Đảng Cộng
sản, khôi phục lại lòng tin cho nhân dân là Đảng thực sự tôn trọng sự
công bằng và công lý. Nhưng tại Việt Nam tham nhũng đã quá trầm trọng,
diễn ra ở mọi nơi mọi cấp mọi lĩnh vực, vậy nếu chống tham nhũng không
đúng cách thì sẽ phơi bầy sự mọt rỗng của chế độ qua nhiều thời kỳ lãnh
đạo. Mặt khác chính việc chống tham nhũng sẽ gây ra sự bất công giữa các
phe nhóm, giữa các cá nhân. Liệu những kẻ bị đưa vào tù có chấp nhận,
những kẻ giống mình nhưng chưa bị lộ vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp
luật thậm trí còn đang giao giảng về đạo đức ?
3.
Các cơ quan sức mạnh của nhà nước Việt Nam hiện nay lại chính là nhưng
cơ quan có tham nhũng nhiều nhất, trầm trọng nhất trong đó đặc biệt là
cơ quan Công An, vây khi “đánh” vào các nhân vật chủ chốt của các cơ
quan này thì liệu có đảm bảo được An ninh, Quốc phòng cho đất nước hay
không?
4.
Liệu Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí của ông ta có chứng minh được sự
trong sạch của lực lượng chống tham nhũng hiện nay trước tin đồn cho
rằng họ nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của Trung Quốc, cả về kinh tế, tài
chính, an ninh, quốc phòng, hay không ? Cần hiểu rằng đây cũng là một
tử huyệt về chính trị khi mà lòng dân Việt Nam đang có một sự mặc cảm
rất lớn về chính sách bành trướng và bá quyền Trung Quốc. Rõ ràng rằng
yếu tố Trung Quốc có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự thắng hay thua của
chiến dịch chống tham nhũng tại Việt Nam, nếu không nói là sự ảnh hưởng
này có tính quyết định trong tình thế hiện nay tại Việt Nam. Nhưng lịch
sử cận đại đã dạy cho Việt Nam những bài học quá đắt giá của việc lệ
thuộc vào Trung Quốc. Chỉ cần Trung Quốc của Tập Cận Bình “VÔ TÌNH” đối
với cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam hiện nay mà tổ chức một vài
sự kiện giống như dàn khoan 981 hay Formosa hay tấn công ngư dân Việt
Nam trên Biển Đông… thì cũng đủ để đẩy Nguyễn Phú Trọng và đồng chí vào
chân tường. Nhưng nếu Tập Cận Bình mà ủng hộ Nguyễn Phú Trọng không đủ
độ KÍN ĐÁO,TẾ NHỊ thì Trung Quốc sẽ biến lực lượng chống tham nhũng do
Nguyễn Phú Trọng cầm đầu trở thành tay sai của Trung Quốc. Người dân
Việt Nam lại không bao giờ chấp nhận lãnh đạo của đất nước là tay sai
của TRUNG QUỐC.
5.
Thái độ của Mỹ và phương Tây cũng ảnh hưởng nhiều tới cuộc chiến này.
Tuy không mạnh mẽ, trực tiếp bằng sự ảnh hưởng của Trung Quốc nhưng xã
hội Việt Nam và tâm lý của người dân Việt Nam đang hướng tới một xã hội
dân chủ công bằng và văn minh. Khi nói đến khái niệm này thì tuyệt đại
đa số người Việt Nam đều nghĩ tới Mỹ và phương Tây.
Trở lại một chút về thái độ của chính phủ Đức trong vụ Trịnh Xuân Thanh.
Tác giả bài viết này không cho rằng phản ứng mạnh mẽ của chính phủ Đức
đối với chính phủ Việt Nam chỉ xuất phát từ những nguyên nhân bề nổi như
báo chí đã nói. Ngược lại tác giả cũng không cho rằng lực lượng chống
tham nhũng của nhà cầm quyền Việt Nam lại có hiểu biết và hành động thô
thiển, vụng về nhưng những gì đã diễn ra công khai đã được công luận
tường thuật. Ngay từ khi Trịnh Xuân Thanh được đưa về Việt Nam các
cơ quan an ninh và chuyên gia trong và ngoài nước đã có những tư vấn kịp
thời với lực lượng chống tham nhũng tại Việt Nam nhằm tránh đi những
tổn hại đáng tiếc về ngoại giao và bang giao kinh tế nhưng dường như
chẳng ai trong lực lượng chống tham nhũng tại Việt Nam quan tâm đến
những lời tư vấn này và đã không làm những việc cực kỳ đơn giản để không
làm trầm trọng hóa vấn đề này. Nhưng khi sự việc đã tiến triển theo
chiều hướng xấu vượt mức bình thường thì phía Nguyễn Phú Trọng lại quy
trách nhiêm cho Phạm Bình Minh? Môt số dấu hiệu này đã nói lên rõ ràng
rằng cuộc chiến chống tham nhũng đã vượt qua phạm vi biên giới của Việt
Nam mà sẽ là cuộc chiến giành ảnh hưởng giữa phương Tây và Trung Quốc
đối với Việt Nam. Liệu Nguyễn Phú Trọng còn giữ được đường lối “đa
phương hóa, đa dạng hóa với các nước” được hay không, hay lại theo
chân Malaysia, Thái Lan, Philippines thậm chí là Campuchia trong chính
sách đối ngoại với Trung Quốc? Chắc chắn câu trả lời cho câu hỏi này
không chỉ là ở phía Việt Nam mà còn ở Trung Quốc và các nước phương Tây
và Mỹ.
Tóm
lại Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí của ông đã chọn một con đường khác
hẳn với con đường mà người tiền nhiệm của ông là Nông Đức Mạnh đã lựa
chọn. Cứ giả thiết, như nhiều lời đồn đoán dù thiện ý hay ác ý, cho rằng
cuộc chiến chống tham nhũng này chỉ là một cuộc tranh giành quyền lực
giữa các phe phái thì một thực tế không thể phủ nhân là:
1.
Việt Nam không thể không chống tham nhũng và càng không thể chống tham
nhũng bằng cách đưa những kẻ tham nhũng lên làm lãnh đạo đất nước.
2. Cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam sẽ không phải chỉ là câu chuyện nội bộ của Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét