Thứ Năm, 5 tháng 7, 2018

3945 - Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường trong trò chơi quyền lực mới (Phần 5)

 Nguyễn Quang Dy

Phần 5: Việt Nam đang ở đâu

Trong khi tình hình bán đảo Triều Tiên đang sáng lên, với triển vọng hòa bình và hòa giải, Biển Đông vẫn mờ mịt, khi Việt Nam thông qua dự luật “an ninh mạng” và “đặc khu kinh tế”, làm dư luận bất bình phản đối “khủng khiếp” (lời Thủ tướng) như vụ dàn khoan HD 981 (5/2014). Có thể nói hai dự luật đó là hệ quả của sự kết hợp (cố ý) giữa nhận thức mơ hồ và ngộ nhận (do quan trí thấp) với sự đánh tráo khái niệm (bị thao túng bởi các nhóm lợi ích), giữa nhóm lợi ích trong và ngoài nước (có động cơ trục lợi) với thế lực ngoại bang (muốn thôn tính Việt Nam). Chỉ có lý giải như vậy mới hiểu được tại sao người ta lại ghép ba vị trí chiến lược xung yếu đó (Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc) vào một văn bản pháp luật, để tìm cách thông qua Quốc Hội, như “dắt voi qua rào” (như “ba con ngựa thành Troy”) hay ba quá bom nổ chậm tại ba huyệt đạo xung yếu của ba miền. Tuy người ta có thể thỏa hiệp về thời hạn thuê đất (dưới 99 năm) và hoãn binh chứ không bỏ cuộc, và chắc không thỏa hiệp bỏ ba vị trí đắc địa đó, để đổi lấy các vị trí hợp lý hơn như khu công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội) và Quang Trung (Sài Gòn) để phát triển “công nghệ 4.0”, như chính phủ kiến tạo vẫn “chém gió”. Trong bối cảnh đó, muốn tránh tai họa quốc gia, phải tìm đồng thuận quốc gia bằng trưng cầu ý dân.   

Nghịch lý chống tham nhũng

Trong khi ở Trung Quốc, ông Tập Cận Bình chống tham nhũng triệt để (với khẩu hiệu “đả hổ diệt ruồi”) thì ở Việt Nam trong gần một năm qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng bắt đầu chống tham nhũng quyết liệt hơn với câu nói nay đã thành nổi tiếng là “lò đã cháy lên rồi thì củi khô hay củi tươi cho vào cũng cháy hết”. Có lẽ vì vậy mà báo chí đã gọi ông Nguyễn Phú Trọng là “người đốt lò vĩ đại”.  Trong khi ở Trung Quốc ông Tập Cận Bình bắt hổ Bạc Hy Lai (và gần đây là bắt Tôn Chính Tài) thỉ ở Việt Nam ông Nguyễn Phú Trọng cũng bắt hổ Đinh La Thăng. Trong khi ông Tập Cận Bình có ông Vương Kỳ Sơn là cánh tay phải, thì nay ông Nguyễn Phú Trọng cũng có ông Trần Quốc Vượng là cánh tay phải (tuy ông Vượng khác ông Vương). Nay chống tham nhũng trước mắt được lòng dân và củng cố được quyền lực, nhưng muốn có hiệu quả lâu dài, phải cải tổ thể chế toàn diện mới kiểm soát được quyền lực.

Vừa qua, cuộc chiến chống tham nhũng đã chĩa mũi nhọn vào PVN (như một đại án). Đinh La Thăng và Trịnh Xuân Thanh cùng đồng sự đã biến thành củi tươi bị ném vào lò từ trước Tết, nhưng vẫn chưa phải hồi kết, mà để sau Tết sẽ xử tiếp (cho có “tính nhân văn”). Tuy nhiên, một hệ quả là PVN gần như bị tê liệt, trong khi Việt Nam phải khai thác tiếp dầu khí để bổ xung cho ngân sách đang bị thiếu hụt trầm trọng, thậm chí có nguy cơ “sụp đổ tài khóa quốc gia” (lời thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc). Đồng thời, hệ quả của vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin đã dẫn đến khủng hoảng trong quan hệ Viêt-Đức, làm tổn thương triển vọng ký hiệp định tự do thương mại EVFTA (được cho là quan trọng chỉ sau TPP). Dù Việt Nam rất muốn tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với các nước EU (cũng như với các nước “Quad”), nhưng vụ Trịnh Xuân Thanh và vấn đề nhân quyền vẫn là một rào cản hiện nay.

Cách hành xử của Việt Nam trong vụ Trịnh Xuân Thanh là một ví dụ điển hình về “tính chuyên nghiệp ấu trĩ” (naïve professionalism) của hệ tư tưởng 1.0 vẫn tồn tại song song và bất cập với “ảo tưởng duy ý chí” (wishful delusion) của tư duy cải cách 2.0 đang làm cho hệ thống vận hành đất nước bị phân liệt (dysfunational) và tiếp tục tụt hậu. Điều đó có thể lý giải (một phần) mô hình “không chịu phát triển” của Việt Nam. Thực ra, sự ngu dốt nhưng khiêm tốn không nguy hiểm bằng sự “ngộ nhận cực đoan” (extreme misperception) nhưng ngạo mạn, đã dẫn đến sự “chắp vá sáng tạo” (creative tinkering) như nghề “hàn song hàn nồi” dưới thời bao cấp, mà nay được tái hiện bằng cách lai ghép kinh tế thị trường với “định hướng XHCN”. Tuy Việt Nam không thiếu nhân tài, nhưng đáng tiếc là thực dân Pháp đã ngu xuẩn tiêu diệt mất những người trí thức “man di hiện đại” (như Nguyễn Văn Vĩnh) và nhà tư tưởng cách mạng ôn hòa “Tây Hồ” (Phan Châu Trinh). Và đáng buồn là sau đó các nhà cách mạng cực đoan và ấu trĩ đã ngu xuẩn tiêu diệt nốt hình ảnh và nội dungi mà các vị ấy để lại cho hậu thế. Cách đây gần một thế kỷ, nhà thơ Tản Đà đã đề cập đến sự ấu trĩ định mệnh (fateful naivete) trong mấy vần thơ “sấm truyền”: Dân hai lăm triệu ai người lớn. Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con. 

Để chống tham nhũng và củng cố quyền lực, TBT Nguyễn Phú Trọng đã quyết định tham gia Đảng ủy Công An Trung ương (tạo ra một tiền lệ mới), với mục đích được hiểu ngầm là để cải tổ bộ máy của Bộ Công An từ lâu đã chịu nhiều ảnh hưởng của cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Vụ bắt “Vũ Nhôm” là một đòn cân não nhắm vào Tổng cục 5, và vụ bắt tướng Nguyễn Thanh Hóa (cựu cục trưởng C50) liên quan đến đường dây đánh bạc trực tuyến là một đòn mạnh nhắm vào Tổng cục Cảnh sát. Việc cải tổ PVN và Bộ Công An là rất cần thiết vì một số cá nhân và đơn vị đã “tự diễn biến” và tham nhũng, nhưng cái giá phải trả là an ninh năng lượng và an ninh quốc gia có thể bị ảnh hưởng lớn nếu phương án cải tổ không đủ nhanh và đủ hiệu quả. Đó là nghịch lý chống tham nhũng. Một khi quyền lực không được kiểm soát thì các nhóm lợi ích sẽ thao túng thể chế để trục lợi. Muốn kiểm soát được tham nhũng phải kiểm soát được quyền lực, và muốn kiểm soát được quyền lực phải cải tổ thể chế đồng bộ.

Vụ Mobilefone mua AVG là một vụ đại án đã được điều tra từ lâu làm dư luận xôn xao, nhưng nay mới được lôi ra xử lý công khai và rốt ráo. Vụ án này trở nên đầy kịch tính khi Bộ chủ quản TT-TT đã có những phản ứng quyết liệt một cách vụng về như lậy ông tôi ở bụi này khi bộ gửi công văn phản bác lại kết quả điều tra của Thanh tra Chính phủ (nay được Ban Bí thư chỉ đạo). Sau khi đạo diễn cho Mobifone và AVG hủy hợp đồng giao dịch mà dư luận gọi là “nuốt không trôi phải nhè ra” hay “hủy hôn để chạy tang”, và nộp lại tài sản tham nhũng để “khắc phục hậu quả” dù “muộn còn hơn không”, họ hy vọng được giảm nhẹ tội mà ông Nguyễn Phú Trọng đã kết luận: “Đây là vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, nhạy cảm…”.

Nhưng vấn đề dư luận quan tâm nhất hiện nay là đề án cải tổ Bộ Công an (“đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”), dự kiến triển khai trước TW7 (từ 7/5/2018), để chốt kế hoạch sắp xếp lại tổ chức và nhân sự của Bộ Công an, theo đó 6 tổng cục sẽ bị bãi bỏ và 2 bộ tư lệnh sẽ bị hạ cấp, trong khi nhiều nhân sự cao cấp của bộ Công An chắc sẽ bị “thay máu”. Sau khi bắt “Vũ Nhôm” và xử lý vụ Mobifone mua AVG, một loạt tướng tá công an đã bị bắt “cho vào lò”, như thiếu tướng Nguyễn Thanh Hóa (cựu cục trưởng cục C50), trung tướng Phan Văn Vĩnh (cựu tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát) và trung tướng Phan Hữu Tuấn (cựu tổng cục phó Tổng cục Tình báo). Chắc vụ án với đầu mối “Vũ Nhôm” vẫn chưa dừng lại. Có thể nói lần đầu tiên đặc quyền “bất khả xâm phạm” của Bộ Công An (và Tổng cục 5) đang bị thất thế so với Bộ Quốc phòng (và Tổng cục 2).

Theo Lê Hồng Hiệp, có ba lý do chính để Bộ Công An phải thực hiện đề án cải tổ bộ máy theo chủ trương của BCT (2/4/2018) nhằm sửa đổi nghị định 106 (2014) bãi bỏ 6 tổng cục và giảm 126 cục xuống còn 60 cục, tác động tới 300-400 sỹ quan cao cấp. Thứ nhất, động lực chính cho quá trình cải tổ này là do áp lực từ tình trạng thiếu hụt ngân sách kéo dài của Việt Nam. Thứ hai, điều đó nhằm tái lập sự kiểm soát của Đảng đối với Bộ Công An và các quan chức cấp cao được coi là thân cận với ông Nguyễn Tấn Dũng. Thứ ba, đó là biện pháp kịp thời nhằm làm trong sạch hóa lực lượng công an để tiếp tục chống tham nhũng. (Điều gì thúc đẩy Việt Nam tái cấu trúc Bộ Công an?, Lê Hồng Hiệp, Nghiên Cứu Quốc Tế, 6/4/2018).

Đó là mấy vụ đại án đang được xử lý rốt ráo trước hội nghị TW7. Nhiều củi gộc đã bị ném vào lò như Đinh La Thăng và các cộng sự trong vụ PVN; Nguyễn Thanh Hóa và Phan Văn Vĩnh trong vụ đánh bạc trực tuyến (liên quan đến C50 và tổng cục cảnh sát); Trương Minh Tuấn và cộng sự trong vụ MobiFone mua AVG; Trong khi đó, vụ “Vũ Nhôm” và “Út Trọc” được sử dụng như những “quả bom nổ chậm” nhằm vào các mục tiêu khác. Bắt trung tướng Phan Hữu Tuấn (và một số tướng tá khác) là nhằm dẫn đến thay đổi nhân sự cấp cao. Tuy chiến dịch chống tham nhũng quyết liệt của TBT Nguyễn Phú Trọng được lòng dân, nhưng dư luận vẫn lo ngại không biết nó có bị dập khuân theo bài bản của Bắc Kinh hay không.

Như một quy luật, những gì diễn ra tại Việt Nam hầu như lặp lại những gì diễn ra tại Trung Quốc. Điều đó không chỉ do văn hóa của hai nước có chung nguồn gốc, mà còn do ý thức hệ và thể chế chính trị của hai nước khá giống nhau. Trong khi Trung Quốc chống tham nhũng triệt để, Việt Nam cũng chống tham nhũng quyết liệt hơn, làm hiện tượng quan tham tự sát tăng lên. Những đại án đã xét xử và những đại án khác còn đang treo làm nhiều quan tham lo sợ, tuy vẫn chưa động đến mấy con hổ lớn. Chống tham nhũng tại Viêt Nam đầy nghịch lý và thiếu triệt để, nếu không cải tổ thể chế chính trị để kiểm soát được quyền lực.

Tuy người Việt vốn nổi tiếng vì tinh thần dân tộc chống ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử,  nhưng tâm lý “thoát Trung” đang bị kiềm tỏa bởi cái vòng kim cô của não trạng Thành Đô. Trong khi nhiều người cho đó là hệ quả của dân trí thấp, nhiều người khác lại cho đó là hệ quả của Hội chứng Stokholm, do người ta phải chấp nhận chung sống quá lâu với hệ tư tưởng giáo điều và với tâm lý nhược tiểu. Trong khi Trung Quốc triển khai Tam chủng Chiến pháp (chiến tranh tâm lý, pháp lý, truyền thông) thì Việt Nam chưa có đối sách tương tự. Công tác truyền thông và an ninh mạng ngày càng yếu kém vì được giao cho những kẻ chỉ quen đục nước béo cò. Trong khi bộ trưởng Thông Tin lo đạo diễn cho MobiFone mua AVG (để trục lợi), thì cục trưởng C50 bận bảo kê cho đường dây đánh bạc online (để ăn chia).   

Sau vụ tai tiếng về Kong: Đảo Đầu lâu (của Wanda Group) là vụ tai tiếng Điệp vụ Biển Đỏ (của Bona Group) gây bức xúc trong dư luận. Gần đây, khi vụ 14 du khách Trung Quốc công khai mặc đồng phục in hình đưởng lưỡi bò tại sân bay Cam Ranh làm dư luận bất bình, thì ông Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch hồn nhiên phán rằng phải xử lý khéo “không để ảnh hưởng đến đại cục”. Nếu xem xét các vụ việc nói trên trong bối cảnh Trung Quốc đang triển khai Tam chủng Chiến pháp tại Biển Đông, thì không thể biện minh được cho thái độ ứng xử vô minh và vô cảm của các quan chức nghành văn hóa và du lịch Việt Nam. Trong khi họ dễ dàng (hay cố ý) để lọt Điệp vụ Biển Đỏ, thì nhiều năm qua họ lại khắt khe cấm chiếu bộ phim tài liệu Hoàng Sa Việt Nam - Nỗi đau Mất mát của Hồ Cương Quyết (Andre Menras) và cấm xuất bản cuốn sách Vòng tròn Bất tử do tướng Lê Mã Lương chủ biên (nói về trận Gac-Ma). Tuy chưa vội kết luận động cơ thực sự của họ là gì, nhưng phải chăng họ đã vô tình tiếp tay cho Tam chủng Chiến pháp của Trung Quốc, chứ không phải vì lợi ích quốc gia của Việt Nam.

Tuy Trung Quốc đầu tư lớn cho quyền lực mềm để triển khai Tam chủng Chiến pháp (Three Warfare Doctrine) và các chiến dịch truyền thông Charm Offensive, nhưng các sản phẩm tuyên truyền của họ vẫn còn thô thiển (crude). Bộ phim Chiến binh Sói 2 và Điệp vụ Biển Đỏ là một ví dụ điển hình. Không ngạc nhiên nếu kinh phí làm hai bộ phim này là từ nguồn Quân đội Trung Quốc (PLA), và đơn vị sản xuất Điệp vụ Biển Đỏ chính là công ty phát hành phim Beijing Polybona (đã tham gia sản xuất Chiến binh Sói 2). Beijing Polybona là một công ty con thuộc tập đoàn China Poly, một tập đoàn nhà nước kinh doanh đa ngành từng được tạp chí Hollywood Reporter của Mỹ gọi là “đơn vị kinh doanh của quân đội Trung Quốc” (a business wing of the People’s Liberation Army). Tập đoàn này được biết đến với vai trò nổi bật là đại diện thương mại cho ngành công nghiệp sản xuất vũ khí của Trung Quốc.

Việc Chính phủ hay Quân đội Trung Quốc chống lưng và đầu tư kinh phí cho giới điện ảnh làm phim tuyên truyền không phải là chuyện mới lạ tại Trung Quốc. Điều đáng nói là đa số người dân Trung Quốc (nhất là giới trẻ) thích xem phim ảnh và muốn nhìn thấy sức mạnh cứng của Trung Quốc được phô diễn trên trường quốc tế vì lòng tự hào dân tộc mù quáng. Lâu dần, người dân sẽ tin vào tuyên truyền của Chính phủ Trung quốc về “chủ quyền không thể chối cãi” của họ tại Biển Đông. Nhưng điều đáng trách nhất là các cơ quan chức năng Việt Nam đã hồn nhiên cho phép các phim này được chiếu tại Việt Nam “đúng quy trình”.

Một sự kiện khác đang làm dư luận quan tâm là Bắc Kinh và Hà Nội đang triển khai thành lập hệ thống “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát cửa khẩu”, dự kiến sẽ được đưa vào hoạt động từ tháng 5/2018. Trạm kiểm soát đầu tiên dự kiến đặt ở Phòng Thành Cảng (Fanchenggang), được thiết lập trên cầu Dongxing-Móng Cái, sẽ kết nối với thành phố Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh). Trạm thứ hai dự kiến sẽ đặt tại Cầu Hữu nghị (cửa khẩu Pingxiang), để kết nối với thị trấn Đồng Đăng (tỉnh Lạng Sơn). Ý tưởng này được hoan nghênh như “một bước tích cực để hội nhập quốc tế” trong bối cảnh hai nước đang tranh chấp chủ quyền và Trung Quốc đang có tham vọng bành trướng bá quyền tại Biển Đông. Khái niệm “Hai quốc gia, một khu vực thương mại” (theo mô hình hợp tác kinh tế qua biên giới) và “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát cửa khẩu” (theo thuyết “biên giới mềm”) tiềm ẩn nguy cơ làm Việt Nam mất chủ quyền.

Theo các chuyên gia trong nước và ngoài nước, dự án này “lợi bất cập hại”, vì Trung Quốc (là nước lớn) nên dễ bắt nạt Việt Nam (là nước nhỏ) bằng chiến lược “tằm ăn dâu” để lấn chiếm dần và áp đặt chủ quyền nước lớn. Dự án này tạo điều kiện dễ dàng cho người Trung Quốc vào Việt Nam hơn là người Việt Nam vào Trung Quốc. Ví dụ, tại thành phố Phủ Lý (tỉnh Hà Nam) cách đây mấy chục năm chỉ có vài chục người Trung Quốc (đi du lịch rồi ở lại), nhưng nay có khoảng 40,000 người Trung Quốc làm ăn chui trong một thành phố chỉ có khoảng 100,000 dân. Tại nhiều thành phố khác (như Nha Trang và Đà Nẵng) số người Trung Quốc đang tăng lên nhanh chóng. Theo bà Phạm Chi Lan, những người làm việc trong các cơ quan chính quyền tại hai thành phố này đã thừa nhận nhiều dãy phố lớn ở đây đã rơi vào tay người Trung Quốc. Điều đó tiềm ẩn nguy cơ cho an ninh kinh tế và an ninh quốc phòng. Nhưng một số chuyên gia khác (như Lê Hồng Hiệp) lại tỏ ra lạc quan là Việt Nam và Trung Quốc có thể hợp tác, coi dự án này như một cách “để hai nước có thể làm việc với nhau nhằm phục vụ các lợi ích chung” và “vượt lên trên cuộc tranh chấp ở Biển Đông để hướng tới phía trước”. (Việt Nam - Trung Quốc: Hai Quốc gia Một trạm Kiểm soát Cửa khẩu, VOA, Febuary 6, 2018).

Đổi mới thể chế hay là chết

Trong khi Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ thì Việt Nam suy yếu, tụt hậu so với các nước láng giềng. Sự phát triển “bất cân xứng” (asymmetric) tiềm ẩn nguy cơ phụ thuộc (và “Bắc thuộc”). Đến nay, chuyển đổi cơ cấu kinh tế vẫn ỳ ạch, công nghiệp hóa vẫn chậm, thương mại với Trung Quốc vẫn nhập siêu lớn, nợ công vẫn cao, ngân sách vẫn thâm hụt (thu không đủ chi), nguy cơ “sụp đổ tài khóa”. Năm 2017, Việt Nam tuy đạt các chỉ tiêu kinh tế cơ bản, nhưng vẫn chưa triển khai cải cách thể chế (như khuyến nghị của “Báo cáo Việt Nam 2035”). Nếu không cải tổ thể chế thì không tạo ra được động lực mới để phát triển tiếp.

Hãy so sánh tình trạng bất cân xứng giữa Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông. Tháng 5/2016, Reuters công bố một phóng sự điều tra, nói rõ chính quyền Hải Nam đang huấn luyện quân sự cho ngư dân Trung Quốc, trang bị vũ khí cho họ và biên chế các tàu đánh cá thành các đơn vị dân quân. Chính quyền Hải Nam nói với Reuters rằng khoảng 50.000 tàu đánh cá đã được trang bị hệ thống liên lạc với lực lượng tuần duyên, được cấp xăng dầu và nước đá để đánh bắt xa bờ, đồng thời tham gia “bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông”. Chủ một số công ty đánh cá xác nhận với Reuters rằng họ được nhà nước tài trợ để thay tàu đánh cá vỏ gỗ bằng tàu đánh cá vỏ thép. Lực lượng dân quân biển Trung Quốc đang phát triển mạnh, vì “ngư dân Trung Quốc quyết tâm bảo vệ lãnh hải và lợi ích quốc gia”.

Còn Việt Nam có 3.500 cây số bờ biển, hơn một triệu ngư dân và chừng 28.000 tàu đánh cá chuyên đánh bắt xa bờ. Năm 1997, chính phủ Việt Nam đã triển khai chương trình “hỗ trợ đánh bắt xa bờ”, nhưng 10 năm sau chương trình này đã ngốn hết 1.400 tỉ VNĐ, và Thanh tra Chính phủ xác nhận “95% kinh phí đã bị tham nhũng”. Trước năm 2000, Việt Nam cũng triển khai chương trình “lắp đặt thiết bị định vị vệ tinh cho tàu đánh cá”, thí điểm với 2.000 tàu, nhưng hàng loạt thuyền trưởng đã kiên quyết đòi trả lại thiết bị vì chất lượng quá tồi và quá nhiều ràng buộc. Theo Nghị định 67 (2014), Chính phủ Việt Nam đã bỏ ra một gói cứu trợ 14.000 tỉ VNĐ để hỗ trợ ngư dân bám biển bằng cách chuyển đổi tàu đánh cá vỏ gỗ thành tàu vỏ thép, nhưng cũng phá sản. Đa số tàu đánh cá vỏ thép đều không thể ra khơi vì từ vỏ tàu tới máy móc và thiết bị đều trục trặc ngay trong chuyến ra khơi đầu tiên. Thượng tướng Lê Chiêm phát biểu tại Quốc Hội (3/5/2018) đã chất vấn, “Lỗi và trách nhiệm thuộc về ai?”

Điều 62 trong Luật Đất đai hiện hành cho phép chính quyền địa phương thu hồi đất của dân để giao cho doanh nghiệp làm dự án là một lỗ hổng về chính sách, có thể bị các nhóm lợi ích thao túng. Gần đây, dư luận cả nước đã bức xúc phản ứng chính quyền Quảng Ngãi định di dời đồn Biên phòng Bình Hải để giao đất cho tập đoàn FLC làm dự án “quần thể du lịch nghỉ dưỡng và đô thị Bình Châu-Lý Sơn”. Không phải chỉ có Quảng Ngãi mà trước đó Đà Nẵng cũng đã di dời đồn biên phòng để lấy đất giao cho dự án tư nhân. Thượng tướng Võ Tiến Trung (nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng) khẳng định, “việc bố trí đồn biên phòng ở đâu đã được nghiên cứu rất kỹ. Bởi lẽ đồn nằm trong thế trận phòng ngự, bảo vệ địa phương” (Zing, 22/4). Nếu chính quyền tỉnh Quảng Trị định giao cho tập đoàn FLC 1000 ha tại khu vực cửa biển Cửa Việt để làm resort, sân golf và sân bay, thì sẽ tiềm ẩn rủi ro lớn về an ninh quốc gia, vì FLC có thể chuyển nhượng dự án đó cho nhà đầu tư nước ngoài (như Trung Quốc).

Dường như người ta đã quên mất bài học về “đặc khu kinh tế gang thép Vũng Áng” và dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, cũng như các đặc khu kinh tế khác như Chu Lai (Quảng Nam, 2003), Dung Quất (Quảng Ngãi, 2005), Nhơn Hội (Bình Định, 2005), Chân Mây (Thừa Thiên,  2006), Vân Phong (Khánh Hòa, 2006), Phú Yên (Phú Yên, 2008). Nay Quốc Hội lại sắp thông qua dự luật “Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt” (gọi tắt là “Luật Đặc khu”). Dự kiến đến năm 2030, kinh phí đầu tư cho ba đặc khu đầu tiên của Việt Nam là Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) là 1.570.000 tỉ VNĐ (riêng Vân Đồn là 270.000 tỉ, Bắc Vân Phong là 400.000 tỉ, Phú Quốc là 900.000). Không biết ngân sách nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam lấy đâu ra số tiền đó để đầu tư (nếu không từ phương bắc). Nếu Việt Nam không cải tổ thể chế để kiểm soát quyền lực và tham nhũng, thì chủ trương lớn về “Đặc khu Kinh tế” (special economic zones) chắc chắn “lợi bất cập hại”. 

Trong bối cảnh lợi ích kinh tế và chủ quyền Việt Nam tại Biển Đông đang bị Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng, việc mở cửa ba đặc khu kinh tế tại các địa điểm hiểm yếu đó vào lúc này không thể biện minh, cả về lý do phát triển kinh tế lẫn lý do an ninh quốc gia. Với năng lực quản trị yếu kém nhưng năng lực tham nhũng vượt trội, các khu vực đó sẽ trở thành các “đặc khu tham nhũng” của các nhóm lợi ích “tư bản đỏ” không bị kiểm soát, và các “lồng ấp đặc biệt” cho “tư bản thân hữu”. Nếu trước đây hầu hết các dự án lớn tại Việt Nam đều rơi vào tay các tập đoàn Trung Quốc, thì không có lý gì các đặc khu kinh tế lại không rơi vào tay họ và biến thành các “tô giới của Trung Quốc”. Các tập đoàn “tư bản thân hữu” Trung Quốc được nhà nước chống lưng có thừa nguồn vốn và động cơ để thôn tính các đặc khu này như một cuộc “xâm lược mềm”, không cần đánh vẫn thắng (như binh pháp Tôn Tử hay “Cờ Vây”). Những vị trí hiểm yếu trên đất liền mà Trung Quốc không chiếm được bằng vũ lực (như họ đã từng chiếm Hoàng Sa và Trường Sa) thì họ hy vọng sẽ chiếm được bằng đầu tư và “sức mạnh sắc bén” (sharp power). Vì vậy, “chủ tương lớn” về “đặc khu kinh tế” với những ưu đãi đặc biệt (như cho thuê đất 99 năm), chẳng khác gì cách “gửi trứng cho ác” hay “nối giáo cho giặc”.

Trong bối cảnh cả nước sục sôi phản đối luật đặc khu kinh tế và luật an ninh mạng, nếu Quốc Hội quyết “ấn nút” để dắt “ba con voi qua rào” (như “ba con ngựa thành Troy”), thì khác gì “lậy ông tôi ở bụi này”, như một hành động “tự sát chính trị” (cả nghĩa đen và nghĩa bóng). Hành động mạo hiểm đó chắc chắn sẽ bị thiên hạ chê cười và con cháu nguyền rủa, làm người ta nhớ đến “thằng bờm cố đấm ăn xôi”, định bán chạy ba đặc khu xung yếu nhất cho người hàng xóm khổng lồ tham lam và độc ác. Không chỉ dư luận trong nước phản đối, mà dư luận quốc tế cũng đang lên tiếng, vì ba vị trí chiến lược đó không chỉ liên quan đến Việt Nam, mà còn liên quan đến tầm nhìn Indo-Pacific của Mỹ mà Việt Nam ủng hộ. Đây là thế “tiến thoái lưỡng nan” (như “catch-22”) mà không ai muốn, nhưng cần khôn ngoan thoát hiểm.

Trong khi một số người cho rằng Phú Quốc có thể phát triển thành Singapore (theo nghĩa tốt), một số khác cho rằng Vân Đồn có thể trở thành Crimea (theo nghĩa xấu). Nhưng câu chuyện thành công của Singapore” (the Singapore Story) dựa trên những tiền đề hoàn toàn khác. Ông Lý Quang Diệu từng nói: “Lẽ ra vị trí số một ở châu Á phải là của Việt Nam”. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên thiên nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở thành “người khổng lồ ở châu Á”. Nhưng đáng tiếc là ngày nay năng suất lao động của người Việt chỉ bằng 1/15 của người Singapore (hay 1/5 của người Malaysia và 2/5 của người Thailand). Ông khẳng định sự thành công của một quốc gia bao gồm ba yếu tố là: (1) điều kiện tự nhiên (vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên), (2) con người, và (3) thời cơ, nhưng căn bản nhất vẫn là yếu tố con người… Vì vậy Ông Lý Quang Diệu rất tiếc vì Việt Nam không biết trọng dụng nhân tài, và cho rằng nhân tài của Việt Nam đã định cư ở nước ngoài hết rồi. (Việt Nam trong mắt Lý Quang Diệu, Cao Huy Huân, VOA, 14/9/2014).

Các “quả đấm thép” (tập đoàn kinh tế) là trụ cột của “kinh tế thị trường định hướng XHCN” đã lần lượt phá sản, vì các nhóm lợi ích “tư bản đỏ” tranh nhau thao túng để làm giàu nhanh. Con tàu Việt Nam đã bị họ “bắt cóc” (hijacked) đi chệch hướng và trật đường ray cải cách. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam tuy vẫn khá cao, nhưng càng phát triển Việt Nam càng tụt hậu, vì phần lớn của cải xã hội chạy vào túi các nhóm lợi ích thân hữu. Họ “ăn của dân không từ một cái gì” (lời bà Nguyễn Thị Doan). Khi tài nguyên cạn kiệt, viện trợ nước ngoài sắp hết, họ đang tận thu bằng nhiều cách khác (như tăng giá điện, xăng dầu, phí BOT). Nếu Bộ Tài chính tiếp tục đà tăng thuế như hiện nay, trong khi hệ quả tham nhũng làm đất nước kiệt quệ và bất an, thì chỉ đẩy doanh nghiệp và người dân vào con đường hầm không lối thoát. 

Cũng giống Trung Quốc, khi môi trường sống ngày càng ô nhiễm, bất an và bất ổn cả vật chất và tinh thần thì dòng người (và dòng tiền) chạy khỏi Việt Nam càng tăng (như bỏ phiếu bằng chân). Theo IOM, mỗi năm có khoảng 100.000 người di cư khỏi Việt Nam. Chống tham nhũng càng quyết liệt thì số người di cư ngày càng nhiều. Theo Epoch Times (30/12/2016) 85% người nhà các quan chức cao cấp Trung Quốc đã định cư và mua nhà ở nước ngoài. Theo Wikileaks (6/1/2017) 65% quan chức cao cấp Việt Nam đã chuẩn bị điều kiện để ra nước ngoài. Hội nghị TW7 (từ 7/5/2018) là cơ hội để Việt Nam đổi mới vòng hai, trước khi quá muộn. Nhưng vấn đề không phải là đổi mới cái gì, mà là đổi mới thế nào. Nếu “nhất thể hóa” không dân chủ hơn mà còn độc tài hơn (như mô hình Trung Quốc) thì chắc đi vào ngõ cụt. 

Về đối ngoại, dù Việt Nam tiếp tục đu dây với ai, thì vẫn phải tăng cường hợp tác chặt chẽ với “Bộ Tứ” (Quad) nhằm biến nó thành “Bộ Ngũ” (Quint), để phòng xa (hedging) vì trong ba năm tới chắc Trump vẫn cầm quyền. Nếu trong âm nhạc người ta có “Tứ Tấu”, thì trong đối ngoại cũng nên có “Ngũ Tấu”? (tuy chưa rõ Việt Nam chơi nhạc cụ gì). Đây vừa là một thách thức vừa là một cơ hội để Việt Nam hội nhập và thích ứng với trật tự thế giới mới đang hình thành tại khu vực Indo-Pacific. Đã đến lúc người Việt đừng vì quá sợ Trung Quốc mà quên mất truyền thống dân tộc, không dám bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích chính đáng.  

Về đối nội, Việt Nam vẫn chưa đổi mới thể chế như khuyến nghị của báo cáo Việt Nam 2035 (tuy đã công bố cách đây hơn hai năm rồi). Trong khi các quan chức chính phủ chém gió quá nhiều về chính phủ kiến tạo, và các chuyên gia chém gió quá nhiều về “công nghệ 4.0” thì Quốc Hội lại sẵn sàng thông qua “dự luật an ninh mạng” (để kiểm soát thông tin “độc hại”). Việc quản trị và điều hành chính sách công bất cập như vậy chẳng khác gì cảnh sát dùng biển cấm 1.0 để chặn đoàn tầu cao tốc 4.0. Trong khi Việt Nam cần tăng cường hội nhập quốc tế và đang vận động các nước EU thông qua hiệp định EVFTA thì lại cho điệp viên sang Berlin bắt cóc Trịnh Xuân Thanh về xử tội tham nhũng. Trong khi “chính phủ kiến tạo” kêu gọi ứng dụng “công nghệ 4.0” thì lại thông qua dự luật an ninh mạng theo “tư duy 0.4”.

Trong khi kinh tế tụt hậu, hội nhập khó khăn, văn hóa suy đồi, thì doanh nghiệp và người dân vẫn khốn đốn vì vấn nạn tham nhũng và thể chế ách tắc chưa được tháo gỡ. Trong khi chính phủ “trên nóng dưới lạnh” (hoặc “trên nóng, dưới nóng, giữa lạnh”), thì “người đốt lò vĩ đại” vẫn tham vọng xây dựng đội ngũ cán bộ “cấp chiến lược” theo tiêu chí “vừa hồng vừa chuyên” (là “tinh hoa của tinh hoa”). Đó là một ý tưởng không chỉ bất khả thi mà còn hoang tưởng. Muốn chống tham nhũng để khôi phục lòng tin của dân thì không thể “lúc nóng lúc lạnh” và “đánh trống bỏ dùi” như cách xử lý các vụ đại án AVG và Thủ Thiêm. Một chính phủ kiến tạo và liêm chính không thể có bộ trưởng giáo dục nói ngọng và đạo văn, bộ trưởng thông tin phạm tội trong vụ “mua AVG”, và bộ trưởng giao thông tai tiếng về “trạm thu giá” BOT… 

Lời cuối     

Tôi muốn lý giải tại sao tôi hay dùng cụm từ “quá ít và quá muộn” (too little too late) mỗi khi đề cập đến đổi mới thể chế hay chính sách. Những ai đã từng học quản trị kinh doanh chắc vẫn nhớ lý thuyết “quản trị thay đổi” (change management) 8 bước của John Kotter, trong đó cho rằng “cấp bách” (urgency) là yếu tố cốt lõi để thúc đẩy thay đổi. Nay lý thuyết “quản trị thay đổi” của John Kotter đã lỗi thời so với lý thuyết “thay đổi quản trị” (management change) của Gary Hemel (Harvard Business School), khi đòi hỏi thay đổi triệt để hơn.

Tôi nhớ có lần giáo sư Kenichi Ohno kể: “Khi trở lại Hà Nội sau 5 năm, tôi thấy các bạn Việt Nam vẫn đang say sưa tranh luận những vấn đề cách đây đã 5 năm”.  Có lẽ ông ấy chưa nói hết. Nhưng điều đáng buồn (và đáng lo) là trong khi người Việt (và người Mỹ) vẫn say sưa nhảy điệu “slow waltz” thì người Trung Quốc đang nhảy “rock n roll”. Trong một nền kinh tế chuyển đổi (transitional) thay đổi quá ít và quá muộn cũng như không thay đổi.

Từ xa xưa, người Việt đã từng răn con cháu đừng để “nước ngập đến chân” (hay chỗ nào đó) rồi mới nhảy (thì lúc đó đã quá muộn). Nay thậm chí người ta còn để “nước ngập đến cổ” nhưng vẫn chưa chịu nhảy, mà còn viện ra đủ thứ lý do như thuyết “đặc thù” (exceptionalism) và thuyết “tiệm tiến” (gradualism) để tìm cách hoãn binh và biện minh cho sự trì trệ và bảo thủ, trong khi chỉ trích những ai yêu cầu đổi mới toàn diện và triệt để là “quá nôn nóng”.



Khi bắt đầu đổi mới “vòng một”, phải chăng ông Nguyễn Văn Linh đã “quá nôn nóng” khi đề ra khẩu hiệu “đổi mới hay là chết”. Tuy ông Nguyễn Văn Linh Linh phát động đổi mới “vòng một” cách đây đã 32 năm, nhưng đến nay chính phủ kiến tạo vẫn chưa đổi mới “vòng hai”. Trong khi đó Quốc Hội Viêt Nam vừa thông qua luật “an ninh mang” (và sắp thông qua luật “đặc khu kinh tế”), như đang trèo con thuyền cũ “trở về quá khứ” (back to the future). Phải chăng người Việt Nam yêu cố đô Huế xinh đẹp vì sông Hương nước chảy lờ đờ, và thường tự hào về thủ đô Hà Nội kiên cường, bất khuất, vì Hà Nội không vội được đâu???

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét