Andrew J. Nathan

· Cuộc biểu tình tại Quảng Trường Thiên An Môn, Bắc Kinh, tháng 6 năm 1989. Ảnh: Foreign Affairs
Ngày 15 Tháng Tư, 1989, ông Hồ Diệu Bang, nhà lãnh đạo được người dân Trung Quốc yêu mến, qua đời vì bị đứng tim. Hai năm trước đó, ông Hồ Diệu Bang bị cách khỏi chức Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc vì bị cho là có tư tưởng quá phóng khoáng. Hôm đó, kỷ niệm ngày Ông qua đời, nhiều ngàn sinh viên từ các trường Đại Học tại Bắc Kinh đã tụ tập tại Quảng Trường Thiên An Môn, ngay giữa Bắc Kinh, để đòi hỏi Đảng Cộng Sản Trung Quốc phải dành cho ông Hồ Diệu Bang một lễ tiễn đưa xứng đáng.
Qua việc vinh danh ông Hồ Diệu Bang, sinh viên đã bày tỏ sự bất bình về tình trạng tham nhũng và lạm phát đã diễn ra trong thời gian mười năm “đổi mới và mở cửa” dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, và thất vọng về việc không có sự mở rộng tự do. Trong suốt 7 tuần lễ sau đó, các lãnh đạo đảng đã tranh luận về cách đối phó với các cuộc biểu tình, và đã gửi ra những thông điệp lẫn lộn tới quần chúng. Trong khi đó, số lượng người biểu tình đã gia tăng tới cả triệu, bao gồm mọi thành phần xã hội. Những sinh viên chiếm cứ quảng trường đã tuyệt thực, đưa ra những đòi hỏi ngày càng cấp tiến, cùng lúc các cuộc biểu tình lan tới hàng mấy trăm thành phố khác trên khắp nước. Đặng Tiểu Bình ra lệnh thiết quân luật kể từ ngày 20 Tháng Năm.
Nhưng những người biểu tình vẫn sấn tới. Đặng Tiểu Bình ra lệnh dùng sức mạnh bắt đầu vào tối ngày 3 Tháng Sáu. Trong thời gian 24 giờ sau đó, nhiều trăm người, nếu không phải là nhiều hơn, đã bị giết. Người ta không biết con số chính xác. Hành động dùng bạo lực đã tạo nên một sự phản kháng rộng khắp trong xã hội và bị cả thế giới lên án như việc khối các quốc gia dân chủ G-7 trừng phạt kinh tế đối với Trung Quốc. Triệu Tử Dương, Tổng Bí Thư ĐCSTQ, đã kêu gọi hoà giải và không đồng ý với quyết định dùng vũ lực. Triệu Tử Dương bị Đặng Tiểu Bình cách chức và bị quản thúc tại gia, kéo dài cho tới khi Triệu Tử Dương qua đời.
Khoảng hơn 2 tuần sau đó, vào ngày 19-21 Tháng 6, Bộ Chính Trị, cơ cấu quyền lực tối cao, triệu tập một phiên họp mà họ gọi là “mở rộng”, bao gồm cả những “tiền bối” đã nghỉ hưu với mục đích thống nhất lớp lãnh đạo ưu tú về quyết định dùng vũ lực cũng như việc cách chức Triệu Tử Dương của Đặng Tiểu Bình. Cách giải quyết của đảng đối với cuộc khủng hoảng 1989 đã vạch ra hướng đi lịch sử của Trung Quốc trong 3 thập niên, và buổi họp khoáng đại của Bộ Chính Trị đã quyết định cách giải quyết đó. Tuy nhiên, những gì được nói ra trong buổi họp đó chưa bao giờ được tiết lộ – mãi đến ngày hôm nay.
Vào ngày kỷ niệm 30 năm cuộc thảm sát 4 Tháng 6, New Century Press, một nhà xuất bản tại Hồng Kông, sẽ xuất bản cuốn sách “Zuihou de mimi: Zhonggong shisanjie sizhong quanhui ‘liusi’ jielun wengao” (The Last Secret: The Final Documents From the June Fourth Crackdown – Bí mật cuối cùng: Tài liệu đúc kết về Cuộc Trấn Áp 4 Tháng 6), một số bài phát biểu của các lãnh đạo cao cấp nhất trong buổi họp đó. New Century Press lấy được những bản viết (và hai bộ ghi chú bằng tay) từ một cán bộ đảng đã tìm cách làm được bản sao vào lúc đó. Vào năm 2001, tạp chí này xuất bản Excerpts from The Tiananmen Papers, là một loạt những báo cáo chính thức và biên bản họp, đã được bí mật gửi ra khỏi TQ, ghi lại những cuộc tranh luận dữ dội và những quyết định bị tranh cãi mà Đảng đã lấy để đối phó với các cuộc biểu tình vào Mùa Xuân 1989.
Ngày hôm nay, những bài phát biểu bị tiết lộ đã giải thích những gì đã diễn ra sau cuộc thảm sát, chỉ rõ ra những bài học mà các lãnh đạo đảng đã rút tiả qua cuộc khủng hoảng Thiên An Môn: Thứ nhất, ĐCSTQ bị kẻ thù trong nước bao vây thường trực khi thông đồng với các kẻ thù ở ngoài nước; Thứ hai, cải tổ kinh tế phải được xếp sau trật tự tư tưởng và kiểm soát xã hội; và Thứ ba, đảng sẽ bị kẻ thù khuất phục nếu để xảy ra chia rẽ nội bộ.
Những bài phát biểu nói trên cho thấy khá rõ bối cảnh độc tài chính trị ở hậu trường, và là dấu hiệu những gì sau đó diễn ra ở TQ khi, trong những thập niên tiếp theo, đảng đã sử dụng những hình thức kiểm soát và can thiệp ngày càng tinh vi hơn chống lại những nỗ lực tự do hoá. Đọc những bản viết, người ta thấy những cán bộ trách nhiệm siết chặt hàng ngũ với những cán bộ tiền bối đã về hưu nhưng vẫn còn nhiều thế lực trong thời kỳ hậu Mao Trạch Đông. Những người từng lo ngại là những cải tổ của Đặng Tiểu Bình quá phóng khoáng đã hoan nghênh cuộc trấn áp, và những người trước giờ chủ trương mở rộng tự do cũng phải nép mình đồng thuận.
Các bài phát biểu cũng làm rõ việc những bài học được rút ra từ Thiên An Môn tiếp tục là kim chỉ Nam cho giới lãnh đạo TQ ngày hôm nay: có thể nối kết trực tiếp những ý tưởng và tình cảm được bày tỏ trong cuộc họp của BCT vào Tháng 6, 1989 với đường hướng cải tổ và bất đồng cứng rắn mà Chủ Tịch Tập Cận Bình đang theo đuổi ngày hôm nay. Phần còn lại của thế giới có thể coi ngày kỷ niệm lần thứ 30 Thiên An Môn là một giai đoạn quan trọng của lịch sử cận đại TQ. Tuy nhiên, đối với chính phủ TQ thì Thiên An Môn vẫn tiếp tục là một điềm báo đáng sợ. Mặc dầu chế độ đã xoá bỏ những biến cố này khỏi trí nhớ của hầu hết người dân TQ, nhưng chúng vẫn còn tiếp tục sống mãi.
Chủ trương của Đảng
Những người tham dự buổi họp mở rộng của Bộ Chính Trị không được mời đến để tranh luận về sự khôn ngoan của quyết định của Đặng Tiểu Bình mà là được triệu tập để thực hiện một nghi thức trung thành, mọi người xác nhận sự hỗ trợ qua việc ký 2 tài liệu: bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình vào ngày 9 Tháng 6 tri ân những binh lính đã thi hành cuộc trấn áp, và một bản báo cáo được soạn bởi Lý Bằng, đối thủ thuộc phe cứng rắn của Triệu Tử Dương, nêu ra chi tiết những sai lầm của ông Triệu Tử Dương trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng. (Hai tài liệu này đã được phổ biến từ lâu.)
Không biết chính xác những ai đã tham dự buổi nói trên của Bộ Chính Trị , nhưng đã có ít nhất 17 người đã phát biểu, mỗi người bắt đầu với câu “Tôi hoàn toàn đồng ý với” hoặc “Tôi hoàn toàn hỗ trợ” khi nói về bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình và báo cáo của Lý Bằng. Tất cả đều đồng ý là các cuộc biểu tình của sinh viên đã khởi đầu như là một sự “gây rối loạn” (“disturbance” hay “Turmoil”). Họ đồng ý là chỉ từ khi các cuộc biểu tình cản trở việc quân đội tiến vào Bắc Kinh vào ngày 2 Tháng 6 thì tình hình mới trở thành “cuộc nổi loạn phản cách mạng” cần phải dập tắt bằng vũ lực. Mỗi người thêm vào những nhận định cá nhân, bày tỏ sự hỗ trợ thật lòng của người phát biểu đối với chủ trương của Đặng Tiểu Bình. Qua nghi thức xác tín này, một đảng đang bị chia rẽ tìm cách sang trang và tái xác định sự kiểm soát của một xã hội rã rời.
Khi tìm hiểu nguyên cớ tại sao sự “gây rối” đã xẩy ra, và tại sao nó biến thành một cuộc nổi loạn, những người phát biểu đã cho thấy một sự hoang tưởng trầm trọng về những kẻ nội thù và ngoại thù. Xu Xiangqian, một Thống Tướng trong Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân (QĐGPND) đã nghỉ hưu, phát biểu như sau:
“Dữ kiện đã chứng minh là sự gây rối trong hơn tháng qua, mà cuối cùng biến thành một cuộc nổi loạn phản cách mạng, là kết quả việc cấu kết giữa những lực lượng phản cách mạng trong và ngoài nước, là kết quả của sự phát triển tự do hoá của tư sản… Kế hoạch của họ là lật đổ sự lãnh đạo của ĐCSTQ, lật đổ Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa và thiết lập một chế độ tư bản tư sản mà bản chất là chống cộng sản, chống xã hội chủ nghiã, và hoàn toàn là tay sai của các thế lực Tây phương.”
Peng Zhen, cựu chủ tịch Ủy Ban Thường Vụ Đại Hội Đại Biểu Nhân Dân Toàn Quốc, đã phản ánh quan niệm này:
“Đã có một thời gian, một nhóm rất nhỏ người đã ngoan cố quảng bá tư tưởng tự do tư sản, kết hợp với những lực lượng thù địch ngoại bang kêu gọi xét lại hiến pháp của chúng ta, một âm mưu tiêu diệt 4 Nguyên Tắc Căn Bản (của Đặng Tiểu Bình để duy trì xã hội chủ nghiã và sự cầm quyền của ĐCSTQ) và giật sập nền tảng của đất nước chúng ta; họ âm mưu thay đổi … hệ thống chính trị căn bản của đất nước chúng ta và để thay vào đó chế độ tam quyền phân lập kiểu Mỹ; họ âm mưu thay chế độ dân chủ tập trung Cộng Hoà Nhân Dân do giai cấp công nhân lãnh đạo dựa trên liên minh công – nông bằng một chế độ tư bản độc tài kiểu Tây phương.”
Một số khác đã nói chi tiết hơn về đề tài này khi nhắc đến những ngày đầu của cuộc Chiến Tranh Lạnh để cảnh báo về âm mưu lật đổ của Hoa Kỳ. “Bốn mươi năm trước, [Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ John Foster] Dulles đã nói là hy vọng tái lập [chủ nghiã tư bản] tại TQ thuộc về thế hệ thứ ba hay thứ tư hậu cộng sản” ông Song Renqiong, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn Trung Ương, nói. “Hiện nay, tình hình ý thức hệ chính trị trong một thành phần giới trẻ rất đáng quan ngại. Chúng ta không được để cho lời tiên đoán của Dulles trở thành sự thật.”
Vật hy sinh
Nhiều người phát biểu đồng ý là sự mục rữa của ý thức hệ đã xẩy ra dưới thời của Hồ Diệu Bang, là tiền nhiệm của Triệu Tử Dương. Hồ Diệu Bang đã giữ chức tổng bí thư từ năm 1982 tới 1987 khi Đặng Tiểu Bình khởi xướng ngoại thương và đầu tư, doanh nghiệp tư nhân, và những yếu tố của định giá thị trường. Song song với những cải tổ này, TQ đã chứng kiến sự gia tăng những ý tưởng thiên Tây phương nơi các ký giả, nhà văn, học giả, sinh viên, một giai cấp mới của những doanh gia tư mới nổi lên, và ngay cả nơi quần chúng. Những người bảo thủ chủ trương việc Đặng Tiểu Bình cách chức Hồ Diệu Bang đã chỉ trích ông Hồ Diệu Bang đã không ngăn chặn xu hướng đó. Họ cũng đã hy vọng ông Triệu Tử Dương sẽ làm khá hơn. Và họ buộc tội ông Triệu Tử Dương đã không quan tâm đủ đến kỷ luật ý thức hệ dẫn đến việc đảng mất sự kiểm soát quan điểm của quần chúng.
Những người phát biểu trong buổi họp Bộ Chính Trị tin rằng hầu hết những người tham gia biểu tình đã bị hướng dẫn sai lạc nhưng không phải là kẻ thù của chế độ. Một người đã phát biểu là họ đã bị “một nhóm rất nhỏ những thành phần xấu” lôi kéo. Song Ping, một nhà làm kế hoạch kinh tế và thành viên của Bộ Chính Trị, còn cho rằng Triệu Tử Dương và những người đồng minh chủ trương cải tổ của ông ta đã âm mưu hiểm độc để phân hoá đảng, lật đổ Đặng Tiểu Bình, và dân chủ hoá TQ. Nhiều người khác đồng tình với quan điểm này mà không đưa ra bằng chứng nào cả.
Những người phát biểu cũng xỉ vả những kẻ thù địch nước ngoài mà họ cho là đã thông đồng để làm cho cuộc khủng hoảng tệ hơn. Theo Song Ping thì “Trong thời gian sinh viên biểu tình nước Mỹ đã nhúng tay vào qua nhiều cách. VOA đã tung tin đồn và kích động hàng ngày để bảo đảm là TQ tiếp tục tình trạng hỗn loạn.”
Phó Chủ Tịch Wang Zhen đã đưa ra quan điểm được nhiều người hỗ trợ là sự can thiệp của Hoa Kỳ chỉ là một hành động mới nhất trong suốt cả thập niên dài âm mưu lật đổ cộng sản:
“Sau Cách Mạng Tháng Mười [năm 1917], 14 đế quốc đã can thiệp quân sự vào chế độ Sô Viết non trẻ, và Hitler đã tấn công vào năm 1941. Sau Thế Chiến Thứ 2, đế quốc Mỹ ủng hộ Tưởng Giới Thạch trong cuộc nội chiến Trung Hoa và sau đó xâm lăng Triều Tiên và Việt Nam. Và bây giờ họ muốn thực hiện mục tiêu đó theo cách dễ dàng qua hình thức ‘diễn biến hoà bình’: … mua chuộc con người bằng tiền, bằng lũng đoạn văn hoá và tư tưởng, cài cắm gián điệp, ăn trộm tình báo, rải tin đồn, kích thích việc gây rối loạn, hỗ trợ những lực lượng thù địch trong nước, đủ mọi cách ngoại trừ trực tiếp xâm lăng.”
Qua việc bêu xấu những người đối kháng trong nước và phóng đại vai trò của lực lượng thù địch nước ngoài, những người bảo thủ đắc thắng đã để lộ sự mù quáng của họ đối với những vấn đề đang tác động lên chế độ của họ. Vấn đề nổi bật ảnh hưởng lên chế độ là họ đã làm bại hoại tinh thần của giới sinh viên, trí thức, và tầng lớp trung lưu qua với những đường hướng chính trị lỗi thời.
Thay vào đó, họ đổ lỗi cho việc cải tổ. Nhóm bảo thủ nay đang thắng thế trước đây lo lắng về chính sách của Đặng Tiểu Bình như Triệu Tử Dương kể lại trong hồi ký đã được viết lén lút và xuất bản sau khi Ông qua đời, “Prisoner of the State” (Người Tù của Chế Độ). Ông đã chiến đấu chống lại nhóm bảo thủ trong suốt thời gian làm thủ tướng (1980 đến 1987), khi Ông giữ vai trò trưởng trong việc thực hiện viễn kiến của Đặng Tiểu Bình, và Đặng Tiểu Bình đã nhiều lần buộc phải nhượng bộ về tham vọng của mình để hoà hoãn với những kẻ chủ trương cứng rắn.
Nhóm bảo thủ kết tội Triệu Tử Dương tại buổi họp Bộ Chính Trị thường làm việc đó bằng cách tấn công những chính sách thực ra là của Đặng Tiểu Bình. Như ông Wang chẳng hạn, đã cảnh báo là cải tổ kinh tế đã đưa TQ tụ về với Tây Phương, nhưng ông ta cho rằng đó là ý của ông Triệu Tử Dương chứ không phải của Đặng Tiểu Bình. (Ông ta và những người khác nhắc tới Triệu Tử Dương với từ “đồng chí” bởi vì Triệu Tử Dương vẫn còn là đảng viên.) Ông Wang nói:
“Chúng ta cần nhìn nhận rằng việc đổi mới và mở cửa mà đồng chí Đặng Tiểu Bình nhắc đến khác từ căn bản với việc đổi mới và mở cửa mà đồng chí Triệu Tử Dương nói. Đổi mới và mở cửa của đồng chí Đặng Tiểu Bình nhằm duy trì chủ quyền quốc gia và tôn trọng đạo đức, duy trì con đường xã hội chủ nghiã, duy trì sự phối hợp giữa kinh tế kế hoạch và sự điều tiết thị trường, tiếp tục bảo vệ tinh thần sáng tạo đấu tranh cam go và hướng đầu tư vào những kỹ nghệ căn bản và nông nghiệp. Đổi mới và mở cửa của đồng chí Triệu Tử Dương là đi theo con đường tư bản chủ nghiã, gia tăng tiêu thụ, dẫn đến phí phạm và tham nhũng. Đồng chí Triệu Tử Dương chắc chắn không phải là người thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của đồng chí Đặng Tiểu Bình mà chính là xuyên tạc và hủy diệt nó.”
Họ cũng bêu riếu Triệu Tử Dương vì đã không hỗ trợ đầy đủ Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân, mặc dù quân vụ nằm dưới sự kiểm soát của Đặng Tiểu Bình. Thống Tướng Nie Rongzhen bảo vệ quan điểm tập trung quân đội vì sự ổn định của quốc gia qua lời lẽ mạnh mẽ sau:
“Trong những năm vừa qua, với tình hình thư thả của thế giới và với ảnh hưởng của xu hướng tự do tư bản, cảm nhận về nhu cầu độc tài [nghiã là, quân đội là sự bảo đảm cho sự ổn định quốc gia] đã yếu đi, công việc tư tưởng chính trị trở nên lơ là, và một số đồng chí lầm tưởng là quân đội không quan trọng nên đã công kích nhân viên quân đội. Đã có một số va chạm giữa một số đơn vị quân đội và chính quyền địa phương nơi họ đóng quân. Cùng lúc, một số bạn chúng ta trong quân đội không thấy thoải mái với công việc của họ và muốn giải ngũ để trở về nhà, nơi họ nghĩ sẽ có nhiều tương lai hơn. Tất cả những điều đó hoàn toàn sai lầm. Tôi nghĩ rằng những đồng chí đó nay đã thấy rõ nhờ ở bài học xương máu vừa mới xảy ra: đó là không thể hạ nòng súng xuống.”
Mặc dầu những bất đồng giữa các lãnh đạo đảng đã đưa đến cuộc khủng hoảng Thiên An Môn, cuộc trấn áp bạo động đã không giúp ích gì cho việc vạch ra hướng đi về phiá trước. Thực vậy, những phát biểu trong Bộ Chính Trị không đem lại cho lãnh đạo đảng giải pháp cho những vấn đề của TQ, vì các thành viên đã quay trở lại với những khẩu hiệu sáo rỗng, với những lởi kêu gọi như “củng cố tinh thần Đảng và quét sạch nạn bè phái” và “hợp nhất quần chúng, phục hoạt tinh thần quốc gia, và đẩy mạnh tinh thần ái quốc.” Vì sự khan hiếm suy tư về chính sách, sự nhất trí đạt tới sau Thiên An Môn rất mỏng manh ngay từ đầu.
Bộ Chính Trị làm lộ ra việc lãnh đạo đảng không có khả năng tìm ra giải pháp để giải quyết vấn nạn của TQ.
Một vài ngày sau cuộc họp của Bộ Chính Trị, đảng đã triệu tập đầy đủ Trung Ương Đảng với 175 thành viên, cùng với những người thay thế, thành viên của Ban Cố Vấn Trung Ương, và những quan sát viên cao cấp trong Hội Nghị lần thứ tư của Trung Ương Đảng kỳ 13.
Người kế vì Triệu Tử Dương trong vai trò tổng bí thư là Giang Trạch Dân, đã có có bài phát biểu trong đó tránh không nói đến sự khác biệt giữa Đặng Tiểu Bình và những người bảo thủ. Ông ta cho rằng Đặng Tiểu Bình chưa bao giờ muốn nới lỏng trật tự ý thức hệ: “Từ 1979 tới 1989, đồng chí Đặng Tiểu Bình đã lặp lại và nhấn mạnh nhu cầu mở rộng việc giáo dục và đấu tranh để hỗ trợ vững chắc Bốn Nguyên Tắc Căn Bản và chống đối việc tự do hoá tư bản. Tuy nhiên, những quan điểm quan trọng này của đồng chí ĐTB đã không được thực hiện rốt ráo.” Giang Trạch Dân thề sẽ thống nhất đảng và xin cố vấn từ “thế hệ cách mạng cao niên.”
Bất chấp những lời hứa của Giang Trạch Dân, cựu thành viên Bộ Chính Trị là Bo Yibolo ngại rằng lớp lãnh đạo mới sẽ tiếp tục bị chống đối. “Chúng ta không thể để việc chia rẽ tái diễn”, ông cảnh báo. “Theo tôi, lịch sử sẽ không cho phép chúng ta đi qua [cuộc thanh trừng] một lần nữa.”
Sau năm 1989, những nhân vật bảo thủ nắm thế thượng phong trong khoảng 3 năm, cho đến khi ông già Đặng Tiểu Bình thực hiện chuyến đi tạo chú ý “về miền Nam” vào năm 1992. Qua việc viếng “đặc khu kinh tế” (nơi chính phủ cho phép những doanh nghiệp nước ngoài đầu tư chuyên về xuất khẩu hoạt động) và đưa ra những nhận định như “bất cứ ai chống đối đổi mới phải từ bỏ công việc.” Đặng Tiểu Bình buộc Giang Trạch Dân và các đồng nghiệp phải tái tục công việc tự do hoá kinh tế. Đó là hành động chính trị cuối cùng của Đặng Tiểu Bình. Nó giúp thúc đẩy phát triển kinh tế nhưng không giúp gì cho việc phục hoạt tự do chính trị.
Niềm tin cốt lõi
Sau khi lên nắm quyền sau cuộc khủng hoảng Thiên An Môn, Giang Trạch Dân giữ vai trò Tổng Bí Thư hơn 12 năm, từ 1989 tới 2002. Nhưng, giống như Triệu Tử Dương, Giang Trạch Dân không bao giờ hoàn toàn kiểm soát được đảng. Thực vậy, không có người thừa kế nào của Triệu Tử Dương làm được điều đó – mãi cho tới Tập Cận Bình. Sự thất bại của Triệu Tử Dương ở lãnh vực này đã được thảo luận tại buổi họp mở rộng của Bộ Chính Trị theo một cách cho thấy tại sao hệ thống TQ có xu hướng ngả về độc tài cá nhân bất chấp nguy cơ và cái giá phải trả cho việc tập trung quyền lực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét