Một phần của quần đảo Hoàng Sa – Paracels – từ trên không. Ảnh: STR/AFP/Getty Images
Ngày 19/1/1974, một cuộc hải chiến
giữa Việt Nam Cộng hòa (VNCH) và Trung Quốc nổ ra, và hầu như không được giới
truyền thông quốc tế xem là một điều quá to tát. Cuộc chiến Việt Nam khi đó vẫn
đang tiếp diễn, và đó mới là mối quan tâm của thế giới ở Đông Nam Á.
Tuy nhiên, kết quả của cuộc hải
chiến này lại ảnh hưởng rất lớn đến vai trò của Trung Quốc trên biển Đông ngày
nay. Từ năm 1974, Trung Quốc đã nắm trọn
quyền kiểm soát toàn bộ các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa (Paracels Islands), tiến
hành công cuộc xâm chiếm quần đảo Trường Sa (Spratlys Islands), uy hiếp các nước
láng giềng để mở rộng đường bản đồ 9 đoạn – hay còn gọi là đường lưỡi bò
(U-shaped map).
Trước đó, từ năm 1956 đến năm
1974, hơn phân nửa diện tích hiện thuộc quyền kiểm soát của Trung Quốc ở quần đảo
Hoàng Sa, là thuộc chủ quyền của Việt Nam, do VNCH quản lý theo Hiệp định
Geneva 1954 và các hiệp ước quốc tế khác, được ký kết sau khi Thế chiến Thứ hai
chấm dứt.
Lãnh thổ quốc gia Việt Nam luôn
được cả hai miền khẳng định, là duy nhất, toàn vẹn và xuyên suốt, trong cả thời
kỳ nội chiến Nam Bắc 1954-1975,
Thế nhưng, khi phần thuộc về chủ
quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc xâm lược vào năm 1974, thì
chính phủ tại cả hai miền đã có những động thái gì để phản đối và khẳng định chủ
quyền trên Biển Đông?
Liệu đây có phải là trách nhiệm của
chỉ một mình VNCH và miền Nam Việt Nam, hay đó vốn phải là trách nhiệm của tất
cả người Việt Nam khi đó?
Chúng ta hãy cùng nhìn lại trận hải
chiến Hoàng Sa và các điều khoản, hiệp ước mà cả hai miền đã ký kết trước đó,
cũng như trong thời điểm ấy, để tìm một câu trả lời đa chiều.
Lãnh thổ và chủ quyền quốc gia
các nước sau Thế chiến Thứ hai
Trước khi đi vào chi tiết của trận
chiến Hoàng Sa, chúng ta hãy hình dung lại bản đồ thế giới ngay sau khi Thế chiến
Thứ hai chấm dứt vào tháng 8/1945.
Ranh giới lãnh thổ của các quốc
gia khi ấy và bây giờ là không giống nhau. Thậm chí, đối với một số quốc gia,
thì ranh giới lãnh thổ mới được phân chia, tái phân chia, hoặc định ra từ lúc
đó.
Từ nửa đầu của thế kỷ 20 trở về
trước, người dân ở hầu hết mọi nơi trên thế giới đều phải đối mặt với chiến
tranh như là một phần của cuộc sống. Lãnh thổ quốc gia chính là do chiến tranh
mà đạt được, và bản đồ thế giới ngày nay phần lớn cũng là do kết quả của các cuộc
chiến thảm khốc phân định ra.
Tranh chấp ở biển Đông nói chung,
và về quần đảo Hoàng Sa nói riêng, cũng có nguồn gốc từ những lần tranh chấp
đó.
Trong một bài giảng ngày 8/9/2017
tại Viện Quan hệ Quốc tế (Institute of International Relations) thuộc Đại học
Chính trị Taipei (Đài Bắc), Taiwan (Đài Loan), phóng viên kỳ cựu và là một nhà
nghiên cứu Biển Đông có tên tuổi, Bill Hayton, cho rằng, Trung Hoa bắt đầu thăm
dò việc mở rộng chủ quyền trên biển từ những năm cuối của triều đại nhà Thanh.
Sau khi được thành lập, nhà nước
Trung Hoa Dân quốc (từ năm 1911-1946) cũng nhiều lần tìm cách khẳng định chủ
quyền ở Biển Đông, qua các chuyến thám hiểm được chính phủ hỗ trợ. Chiang
Kaishek (Tưởng Giới Thạch) và Mao Zedong (Mao Trạch Đông) có thể có nhiều mâu
thuẫn chính trị, nhưng cả hai đều ôm ấp cùng một tham vọng ở biển Đông.
Vị thế địa chính trị
(geopolitics) của quần đảo Hoàng Sa
Quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa-西沙-trong
tiếng Hán) cách khoảng 300 cây số về phía Nam đảo Hải Nam (Hainan), Trung Quốc,
và 370 cây số về phía đông của Đà Nẵng, Việt Nam.
Quần đảo này bao gồm các đảo san
hô, các dải đá, và các bãi ngầm có thể được chia làm hai nhóm chính là
Amphitrite (An Vĩnh) và Crescent (Trăng non – 永乐).
Nhóm đảo Amphitrite nằm ở phía
Đông Bắc của quần đảo Hoàng Sa.
Về phía Tây Nam của nhóm
Amphitrite là nhóm đảo Crescent, bao gồm các đảo Pattle (Hoàng Sa-珊瑚),
Money (Quang Ảnh-金银), và Robert (Hữu Nhật-甘泉) ở bờ Tây, và các đảo Duy Mộng
(Drummond – 晋卿),
Duncan (Quang Hòa-琛航), và Palm (Quang Hòa Tây-广金) ở bờ Đông.
Một khoảng cách 80 cây số phân
chia hai nhóm đảo Amphitrite và Crescent.
Các tài liệu của Trung Quốc luôn
đề cao vị thế địa chính trị của quần đảo Hoàng Sa. Trong bách khoa toàn thư của
quân đội Trung Quốc, thì “quần đảo (Hoàng Sa) là vành đai bảo vệ lãnh thổ đại lục,
và là tuyến đầu của quốc gia (ở biển Đông). Các đường bay và đường biển từ
Trung Quốc đến Singapore và Jakarta-Indonesia đều phải đi qua vùng biển này, và
đó là lý do vì sao quần đảo này lại quan trọng (đối với Trung Quốc) đến vậy”.
Lịch sử chủ quyền quần đảo Hoàng
Sa sau Thế chiến thứ Hai đến năm 1974
Thế chiến thứ Hai kết thúc, nhưng
cuộc nội chiến tại Trung Hoa đại lục vẫn tiếp diễn. Và chủ quyền tại quần đảo
Hoàng Sa cũng liên tiếp thay đổi.
Năm 1947, quân đội Quốc dân đảng
chiếm đóng đảo Woody (Phú Lâm) thuộc nhóm Amphitrite, còn người Pháp thì đóng tại
đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) thuộc nhóm Crescent ở bên kia của quần đảo
Paracels-Hoàng Sa.
Đến khi quân cộng sản chiếm được
đảo Hải Nam, một trong những hào lũy cuối cùng của cuộc nội chiến tại Trung Quốc,
quân đội Quốc dân đảng cũng không thể tiếp tục trụ tại đảo Woody.
Năm 1950, quân giải phóng Trung
Quốc (People’s Liberation Army – PLA) chiếm được đảo này.
Đến năm 1951, tại hòa đàm San
Francisco, Nhật Bản giao ra chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa (Paracels) và Trường
Sa (Spratlys), nhưng không trao trả cho bất kỳ quốc gia nào.
Sau đó, Quốc gia Việt Nam tại miền
Nam Việt Nam và Pháp đều đưa ra công hàm chính thức, khẳng định chủ quyền đối với
quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956 và 1958. Trong cùng thời gian, Trung Quốc và miền
Nam Việt Nam đều có quân chiếm đóng (occupation) ở hai nửa của quần đảo Hoàng
Sa-Paracels.
Năm 1955, một nhà máy Trung Quốc
bắt đầu khai thác phân bón ở đảo Woody để sử dụng tại đất liền.
Một năm sau, vào năm 1956, nước
Pháp chính thức chuyển nhượng chủ quyền đảo Pattle cho VNCH (VNCH được thành lập
năm 1955).
Vào đầu năm 1959, hải quân Sài
Gòn đã dùng vũ lực để đẩy ngư dân Trung Quốc ra khỏi đảo Duncan và điều này
giúp cho VNCH kiểm soát được toàn bộ nhóm đảo Crescent.
Trong suốt thập niên 1960, Trung
Quốc và VNCH đều giữ cho mình ở thế cầm chừng tại biển Đông. Cả hai chỉ xây dựng
cơ sở một cách khiêm tốn, và thỉnh thoảng mới tuần tra vùng hải phận xung quanh
các vùng đảo mà mình kiểm soát.
Một trong những lý do giúp giữ thế
trung dung ở Biển Đông trong giai đoạn đó được cho là bởi vì hải quân Hoa Kỳ hiện
diện trong khu vực. Người Mỹ đã khiến cho Trung Quốc phải cân nhắc việc ra tay
giành giật các đảo thuộc quyền kiểm soát của miền Nam Việt Nam.
Đến thập niên 1970, những hứa hẹn
về khai thác dầu khí gần bờ đã từ từ thổi lên ngọn lửa tranh chấp ở Biển Đông.
Giữa năm 1973, chính quyền Sài
Gòn bắt đầu cho phép các công ty nước ngoài tiến hành thăm dò dầu khí gần nhóm
các đảo Crescent.
Cùng năm đó, Beijing (Bắc Kinh)
cũng bắt đầu lên tiếng về việc chủ quyền đối với tài nguyên thuộc các hải phận ở
những đảo mà họ chiếm đóng. Trung Quốc cũng bắt đầu tiến hành khai thác dầu khí
ở đảo Woody vào tháng 12/1973.
Tất cả các yếu tố địa chính trị,
kinh tế, và chủ quyền đều tập trung cùng lúc, và chúng được xem là đã khiến cho
tranh chấp Biển Đông chính thức bùng nổ.
Tuy nhiên, dã tâm của Trung Quốc
thì không chỉ manh nha bắt đầu vào lúc này.
Trận chiến Hoàng Sa – Công cuộc
chuẩn bị nhiều năm và mưu kế của Trung Quốc
Từ một tài liệu nghiên cứu của
Giáo sư Toshi Yoshihara thuộc Đại học Hải quân trực chiến (United States Naval
War College), chúng ta có thể tìm hiểu sâu hơn về các chi tiết của trận chiến ở
quần đảo Hoàng Sa.
Giáo sư Yoshihara cho rằng đây là
một trong những cuộc hải chiến – tuy ít được giới nghiên cứu và học giả nhắc đến
– nhưng lại vô cùng quan trọng trong lịch sử thế giới cận đại.
Theo ông Yoshihara, trận hải chiến
Hoàng Sa chính thức mở đầu công cuộc mở rộng lãnh thổ trên Biển Đông của Trung
Quốc, và cũng là ngòi nổ cho các cuộc xung đột tại vùng biển này từ đó cho đến
nay. Mà Trung Quốc, đặc biệt là Mao Zedong (Mao Trạch Đông), đã chuẩn bị cho nó
bằng một kế hoạch dài hơi, cũng như chờ đợi một thời cơ thích hợp nhất để tấn
công VNCH vào tháng 1/1974.
Bắt đầu từ mùa hè năm 1973, một
loạt các khiêu khích đã nổ ra giữa hai bên.
Tháng 8/1973, VNCH đã chiếm sáu đảo
thuộc quần đảo Trường Sa-Spratlys Islands, và một tháng sau, chính quyền Sài
Gòn chính thức tuyên bố chủ quyền đối với 10 hòn đảo thuộc Trường Sa.
Tháng 10/1973, hai tàu đánh cá của
Trung Quốc – số 402 và 407 – tiến đến gần nhóm đảo Crescent của quần đảo Hoàng
Sa, và thực hiện hoạt động đánh bắt tại đó. Thuyền viên của hai đoàn tàu này đã
cắm cờ Trung Quốc lên các hòn đảo vốn đang được VNCH chiếm đóng, cũng như tiến
hành thiết lập một đội hậu cần tại đó – nơi mà hơn một thập niên trước, quân đội
VNCH đã đánh đuổi họ ra khỏi.
Tháng 11/1973, hải quân VNCH truy
đuổi hai tàu đánh cá Trung Quốc 402 và 407 ra khỏi vùng đảo Crescent, bắt giữ một
số thủy thủ, và giải họ về Đà Nẵng.
Ngày 10/1/1974, hai đoàn tàu này
trở lại Crescent và bắt đầu xây dựng một nhà máy chế biến hải sản tại đây. Một
ngày sau đó, chính quyền Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với các quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và Macclesfield (Trung Sa – 中沙 – trong tiếng Hán).
Từ ngày 14-17/1/1974, hải quân
VNCH đã điều động lực lượng đến quần đảo Hoàng Sa để giữ các đảo thuộc quyền kiểm
soát của mình qua việc và xua đuổi các tàu đánh cá của Trung Quốc ra khỏi đó.
Ngày 16/1/1974, hải quân Trung Quốc
cũng điều động hai tàu chiến trực tiếp hướng về phía quần đảo này.
Các tàu chiến của Trung Quốc đều
nhận được lệnh, không nổ súng trước. Mà ngược lại, họ sử dụng hai tàu đánh cá
nói trên để khiêu khích hải quân VNCH. Hai tàu đánh cá 402 và 407, theo ký lục
của hải quân Trung Quốc ghi lại, vốn trực thuộc quyền điều khiển của họ, chứ
không phải là các tàu đánh cá của dân thường.
Hải chiến Hoàng Sa chính thức nổ
ra vào rạng sáng ngày 19/1/1974. Chi tiết sống động về cuộc chiến đã được Bill
Hayton miêu tả qua gần 10 trang trong sách của ông The South China Sea: The
Struggle for Power in Asia (trang 70-78).
Đến cuối cùng, Trung Quốc đã đánh
chìm một tàu quét mìn, gây thiệt hại nặng nề cho ba tàu chiến của VNCH, giết chết
và làm bị thương hàng trăm binh lính hải quân và sĩ quan, bắt giữ 48 người và
chiếm cứ ba hòn đảo thuộc nhóm Crescent.
Kể từ đó, Trung Quốc nắm quyền kiểm
soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa-Paracels Islands.
VNCH phản công bất thành vì Hiệp
định Paris 1973 đã chấm dứt nguồn viện trợ và sự trợ giúp của quân đội Hoa Kỳ
Chính quyền VNCH ngay lập tức đã
phản ứng với việc Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đánh các đảo ở quần đảo Hoàng Sa
do miền Nam Việt Nam kiểm soát trong gần hai thập kỷ. Hải quân VNCH đã chuẩn bị
mang hai tàu khu trực và sáu tàu chiến từ Đà Nẵng để đánh ngược ra Hoàng Sa.
Các lực lượng bộ binh và không
quân cũng được lệnh chuẩn bị chiến đấu. Cùng lúc đó, chính quyền Sài Gòn yêu cầu
lực lượng hải quân Hoa Kỳ từ chiến hạm U.S. Seventh Fleet trợ giúp, nhưng Hoa Kỳ
– vẫn là đồng minh của VNCH khi đó – đã từ chối.
Tuy vậy, Trung Quốc không hề coi
nhẹ lực lượng VNCH, và đã chuẩn bị cho việc bị phản công. Đích thân Mao Zedong
đã ra lệnh cho ba tàu khu trục nhỏ xuất phát từ Guangzhou (Quảng Châu) đi qua
eo biển Đài Loan (Taiwan Strait), để tiến về yểm trợ cho lực lượng chiếm đóng
Hoàng Sa.
Đây vốn là một quyết định khá liều
lĩnh của Mao, vì mối quan hệ giữa chính quyền KMT (Quốc dân đảng) và đảng Cộng
sản Trung Quốc lúc đó vẫn rất căng thẳng.
Nhưng đến cuối cùng, có lẽ đảng cầm
quyền KMT tại Đài Loan cho rằng, việc người Trung Hoa (ở bất kỳ đâu) làm chủ
toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vẫn là điều có lợi nhất đối với họ, nên đã âm thầm
cho phép các tàu chiến Trung Quốc đi qua vùng lãnh hải một cách bình yên. Và
đoàn tàu chiến của Mao đã an toàn đến được Hoàng Sa.
Trong khi đó, sau khi Hiệp định
Paris 1973 được hai miền Nam Bắc Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết gần một năm trước, đồng
minh Hoa Kỳ đã rút quân khỏi Việt Nam, cũng như cắt giảm viện trợ cho VNCH.
Thế nên, khi đối diện với tàn cuộc
của cuộc chiến Hoàng Sa, chính quyền VNCH chỉ có thể tự dựa vào sức mình. Mà chỉ
với sức họ, vốn không đủ quân lực để đánh ngược ra Hoàng Sa trong khi cuộc chiến
Việt Nam vẫn đang tiếp diễn.
Trung Quốc đã tính toán rất kỹ nước
cờ này, Giáo sư Yoshihara nhận định, vì họ nắm gần như là chắc chắn người Mỹ sẽ
không tham gia vào tranh chấp ở Biển Đông khi đó.
Mà ngay cả khi Mỹ có ý bảo vệ
VNCH đi nữa, thì Trung Quốc cũng đã chuẩn bị cho một nước cờ kế tiếp. Theo Đô đốc
Kong Zhaonian, một trong những người trực tiếp tham chiến ở Hoàng Sa, thì sở dĩ
Trung Quốc đã chờ cho phía VNCH có phản ứng với các tàu đánh cá trước, là để dùng
trong trường hợp đó. Nếu Mỹ nhảy vào, thì Trung Quốc sẽ tuyên bố với quốc tế,
phía VNCH là phe gây hấn.
Sự im lặng của miền Bắc Việt Nam
sau khi Hoàng Sa bị xâm lược
Hiệp định Paris 1973 là “hiệp định
chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
Đó là những gì được viết trên giấy,
còn trong thực tế, cả hai miền Nam Bắc, cùng lực lượng Chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam (CMLT) ở miền Nam, vẫn tiếp tục nã súng vào đối
phương cho đến ngày 30/4/1975.
Bỏ qua việc phe nào là phe đã phá
vỡ điều lệ ngừng chiến của Hiệp định 1973, câu hỏi được đặt ra với vấn đề chủ
quyền ở Hoàng Sa là, người Việt Nam ở mọi miền đã có những động thái gì để bảo
vệ chủ quyền đối với quần đảo này ngay sau ngày 19/1/1974?
Bỏ mặc những tuyên bố về sự toàn
vẹn lãnh thổ, và cũng không bàn đến những cáo buộc liên quan đến chủ quyền lãnh
hải được bàn bạc giữa Trung Quốc và VNDCCH trong thập niên 1950-1960, chúng ta
chỉ nhìn vào những gì mà các bên đã ký kết trong Hiệp định 1973.
Hành vi của Trung Quốc cưỡng chiếm
Hoàng Sa ngày 19/1/1974 rõ ràng là việc làm đi trái với Điều 1 của Hiệp định
Paris 1973. Quyền kiểm soát một nửa quần đảo Hoàng Sa của miền Nam Việt Nam vốn
được quốc tế công nhận theo Hiệp định Geneva kể từ năm 1956 như đã nêu ở đầu
bài.
Còn Điều 15 của Hiệp định Paris
1973 thì quy định:
“Miền Bắc và miền Nam Việt Nam sẽ
không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào hoặc khối quân sự nào và không cho
phép nước ngoài có căn cứ quân sự, quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự
trên đất mình, như Hiệp định Geneva năm 1954 về Việt Nam quy định.”
Do đó, cũng không thể lấy lý do
là Trung Quốc là đồng minh của VNDCCH trong cuộc chiến 1954-1975 để lý giải cho
sự chiếm đóng của hải quân nước này ở Hoàng Sa.
Đối diện với việc cưỡng chiếm
Hoàng Sa của Trung Quốc, chúng ta chỉ ghi nhận được sự im lặng của VNDCCH vào
thời điểm đó. Liệu sự im lặng này có được xem là việc ngầm công nhận chủ quyền
của Trung Quốc từ phía miền Bắc Việt Nam, đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa hay
không?
Trái ngược lại, chính quyền VNCH
dù không giành lại được Hoàng Sa, nhưng ngày 20/1/1974, họ đã khiếu nại chính
thức đến Hội đồng Bảo an LHQ để tố cáo hành vi xâm lược của Trung Quốc.
Riêng về phần CMLT ở miền Nam,
thì chính phủ lâm thời này được cho là có đưa ra một tuyên bố năm 1974, phản đối
hành vi của Trung Quốc và kêu gọi các nước liên quan đến tranh chấp giải quyết
xung đột trong ôn hòa. Thế nhưng, đó chỉ là thông tin do phía báo chí Việt Nam
đăng tải trong những năm gần đây.
Cho đến nay, không có một tuyên bố
chính thức hoặc một văn bản có hiệu lực pháp lý nào được công bố với công chúng
Việt Nam và quốc tế, để lý giải cho thái độ của VNDCCH và cả của CMLT, trước việc
Trung Quốc đã dùng vũ lực để cưỡng chiếm một phần lãnh thổ của Việt Nam vào năm
1974.
Một trong các lý do là vì giới học
giả vẫn không thể tiếp cận được các tài liệu về Biển Đông được lưu trữ bởi
chính phủ Việt Nam hiện nay. Điều này được Bill Hayton xác nhận một lần nữa vào
ngày 8/9/2017 tại buổi thuyết trình ở Đài Loan về vấn đề Biển Đông.
***
Từ năm 1974 đến nay, Trung Quốc
không ngừng mở rộng đường lưỡi bò qua việc chiếm đóng các đảo ở Biển Đông, cũng
như uy hiếp các nước láng giềng có chủ quyền tranh chấp với họ, trong đó có Việt
Nam.
Năm 1988, Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma
(Johnson South Reef) thuộc Trường Sa của Việt Nam.
Cuối năm 1994, chính quyền Beijing cho xây
dựng đảo nhân tạo ở khu vực mà Philippines tuyên bố chủ quyền tại Mischief Reef
(đá Vành Khăn).
Năm 2012, Trung Quốc ép buộc Philippines phải
nhượng bộ, sau khi xảy ra tranh chấp về quyền đánh bắt ở Scarborough Shoal (bãi
Hoàng Nham).
Bắt đầu từ 2013, Trung Quốc đẩy mạnh việc
xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa.
Năm 2014, giàn khoan 981 của Trung Quốc đi
vào vùng lãnh hải của Việt Nam.
Gần đây nhất, cuối tháng 8/2017, tin tức
Trung Quốc tập trận bằng đạn thật trên biển Đông được truyền thông Việt Nam
loan tải.
Lúc này chính là khi chính phủ Việt
Nam cần phải minh bạch tất cả thông tin đang được lưu trữ về vấn đề Biển Đông.
Vì chỉ có như thế, người dân mới có thể hiểu thấu đáo vấn đề, và các học giả mới
có thể giúp nhà nước giải được bài toán tranh chấp chủ quyền trên biển với
Trung Quốc bằng các biện pháp ôn hòa.
*
Tài liệu tham khảo:
Saigon Says Chinese Control Islands, But
Refuses to Admit Complete Defeat
Hoàng Sa – tường trình 35 năm sau: 30 phút
và 35 năm
Hiệp định Paris 1973
Bruce A. Elleman, “China’s 1974 Naval
Expedition to the Paracel Islands,” in Naval Power and Expeditionary Warfare:
Peripheral Campaigns and New Theatres of Naval Warfare, ed. Bruce A. Elleman
and S. C. M. Paine (London: Routledge, 2011), pp. 143–44.
Toshi Yoshihara, “The 1974 Paracels Sea
Battle: A Campaign Appraisal,” Naval War College Review 69.2 (Spring 2016):
41-65.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét