Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tiến hành chuyến thăm cấp Nhà nước tới
Hà Nội vào ngày 12-13/11/2017 sau khi tham dự hội nghị thượng đỉnh các
nhà lãnh đạo kinh tế APEC tại Đà Nẵng. Theo một nghĩa nào đó, chuyến
thăm là một sự kiện quan trọng vì đó là chuyến thăm thứ hai của ông Tập
tới Hà Nội trong vòng 2 năm. Hồi tháng 11/2015, khi ông Tập tiến hành
chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên tới Việt Nam trong vai trò lãnh đạo
tối cao của Trung Quốc, quan hệ song phương mới chỉ phục hồi sau sự kiện
khủng hoảng giàn khoan tháng 5/2014 vốn đứa quan hệ song phương xuống
mức thấp nhất trong vòng hai thập niên. Ít nhất là trên bề mặt, chuyến
thăm năm 2017 dường như giúp củng cố xu hướng tăng cường quan hệ song
phương. Tuy nhiên, bối cảnh chiến lược và các động lực của quan hệ song
phương đã có những thay đổi quan trọng trong vòng 2 năm qua khiến cho
việc đánh giá tầm quan trọng thực sự của chuyến thăm đối với quan hệ
song phương cũng như bối cảnh chiến lược khu vực trở nên khó khăn hơn.
Bài
viết này đánh giá tầm quan trọng của chuyến thăm bằng cách định vị nó
trong bối cảnh địa chính trị khu vực cũng như các động lực thường xuyên
biến đổi của quan hệ song phương. Bài viết bắt đầu với phần điểm lại
quan hệ song phương kể từ sau Khủng hoảng gian khoan năm 2014, sau đó
xem xét các kết quả chính trong chuyến thăm của ông Tập. Tiếp theo, bài
viết phân tích các yếu tố “kéo và đẩy” vốn vừa đưa hai nước xích lại gần
nhau, vừa đẩy họ ra xa nhau. Cuối cùng, bài viết đánh giá tầm quan
trọng của chuyến thăm đối với quan hệ song phương cũng như khu vực.
Quan hệ Việt – Trung kể từ sau Khủng hoảng giàn khoan 2014
Tháng
5/2014, Trung Quốc đã hạ đặt giàn khoan dầu khổng lồ HD-918 sâu trong
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Sự cố này đã làm bùng nổ hơn hai
tháng đối đầu căng thẳng giữa lực lượng hàng hải của hai nước và châm
ngòi cho hai cuộc bạo loạn chống Trung Quốc tại Việt Nam. Cuộc khủng
hoảng đã làm sứt mẻ nghiêm trọng niềm tin song phương và đưa quan hệ hai
nước xuống mức thấp nhất kể từ sau khi bình thường hóa năm 1991.
Sau
khi khủng hoảng kết thúc vào tháng 7/2014, hai bên đã có các bước đi
nhằm khôi phục quan hệ với việc lãnh đạo hai nước trao đổi các chuyến
thăm thường xuyên hơn. Vào tháng 4/2015, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm chính thức tới Trung Quốc. Ông
Trọng đã được Trung Quốc dành cho các nghi lễ lễ tân trang trọng nhất
với màn chào mừng bằng 21 phát đại bác cùng các thiết đãi xa hoa trong
dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang cố gắng xoa dịu các mối quan ngại an
ninh của Việt Nam và giành lại sự tin cậy chính trị từ Hà Nội. Vào tháng
11/2015, Chủ tịch Tập Cận Bình đáp lễ bằng một chuyến thăm Hà Nội và
phát biểu trước Quốc hội Việt Nam. Đầu năm 2016, dàn lãnh đạo mới của
Việt Nam đã được bầu lên tại Đại hội 12 của Đảng cộng sản Việt Nam. Ông
Trọng đã cử đặc phái viên tới Bắc Kinh để báo cáo cho các lãnh đạo Trung
Quốc về kết quả đại hội. Trung Quốc đáp lễ khi Chủ tịch Tập cũng cử đặc
phái viên của mình tới Hà Nội sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến
hành thành công Đại hội lần thứ 9 hồi tháng 10/2017.
Chỉ
trong vòng một năm sau khi ban lãnh đạo mới của Việt Nam được bầu lên
tại Đại hội 12, tất cả ba lãnh đạo cao nhất của Việt Nam đều đã thăm
Trung Quốc. Cuối tháng 9/2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có chuyến
thăm chính thức tới Trung Quốc đã tham dự Hội chợ thương mại và đầu tư
Trung Quốc- ASEAN tại Nam Ninh. Đầu năm 2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã có một chuyến thăm khác tới Bắc Kinh và Hàng Châu, theo sau đó
là chuyến thăm cấp nhà nước của Chủ tịch nước Trần Đại Quang tới Bắc
Kinh hồi tháng 5/2017, trong đó ông cũng tham dự Hội nghị thượng đỉnh
Vành đai và Con đường về Hợp tác Quốc tế. Chuyến thăm của ông Tập tới Hà
Nội ngay sau khi ông tái đắc cử chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung
Quốc càng củng cố hơn nữa sự cải thiện quan hệ giữa hai bên.
Quan
hệ kinh tế song phương cũng đã chứng kiến những cải thiện vượt bậc
trong vòng 2 năm qua. Cụ thể, theo Bộ Công thương Việt Nam, thương mại
hai chiều đã tăng 7,9% lên mức 71,9 tỷ đô la năm 2016. Theo đó, Trung
Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 20,5%
tổng kim ngạch thương mại của cả nước. Việt Nam cũng đã trở thành đối
tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong khối ASEAN và là đối tác
thương mại lớn thứ 9 của Trung Quốc trên toàn cầu. Đáng chú ý là thâm
hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc, vốn là một mối quan ngại lớn
của Chính phủ Việt Nam, đã giảm 13,67% năm 2016 và tiếp tục giảm xuống
trong năm 2017 (Bạch Huệ, 2017; Minh Hữu, 2017).
Trong
khi đó, đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam cũng đã tăng mạnh trong
những năm gần đây. Tới tháng 4/2017, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu tư
nước ngoài lớn thứ 8 tại Việt Nam với 1.616 dự án FDI trị giá 11,19 tỷ
đô la Mỹ (Phúc Nguyên, 2017). Trong 5 tháng đầu năm 2017, đầu tư của
Trung Quốc đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước lên mức 1 tỷ đôla
Mỹ, đưa Trung Quốc trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ tư của Việt
Nam trong giai đoạn này, chỉ xếp sau Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore (CafeF,
2017). Sự gia tăng đầu tư của Trung Quốc là một biểu hiện đáng chú ý
nếu xét tới thái độ tiêu cực của công chúng Việt Nam đối với ảnh hưởng
kinh tế của Trung Quốc nói chung và đầu tư của Trung Quốc nói riêng. Các
mối quan hệ thương mại và đầu tư được cải thiện đã giúp củng cố nền
tảng kinh tế của quan hệ song phương và mang lại một điểm sáng trong bức
tranh tổng thể của quan hệ Việt – Trung.
Các kết quả chính của chuyến thăm
Trước
khi chuyến thăm bắt đầu, trong một động thái ngoại giao hiếm có, Chủ
tịch Tập đã cho đăng một bài viết mang tựa đề “Mở ra cục diện mới hữu
nghị Trung – Việt” trên tờ Nhân Dân,cơ
quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam (Xi, 2017). Bài
viết nhắc lại tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước, đặc biệt là sự
giúp đỡ của Trung Quốc dành cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt
Nam. Sau khi đề cao việc “hợp tác thực chất giữa hai nước không ngừng
được mở rộng và đi vào chiều sâu”, ông Tập đã đưa ra năm tầm nhìn của
mình cho quan hệ song phương, bao gồm: “nắm vững định hướng, mưu cầu tầm
cao mới về tin cậy chiến lược”, “sâu sắc hợp tác, kiến tạo bố cục mới
hội nhập lợi ích”, “mở rộng giao lưu, củng cố nền tảng mới tương thân,
tương ái giữa nhân dân”, “tăng cường điều phối, tạo dựng điểm sáng mới
hợp tác đa phương”, và “tập trung cho đại cục, tiếp tục viết nên trang
sử mới láng giềng thân thiện”. Về vấn đề biển Đông, vốn vẫn là trở ngại
lớn nhất trong quan hệ song phương, ông Tập gợi ý:
Chúng
ta cần xuất phát từ đại cục cải cách, phát triển, ổn định của mỗi nước
và hữu nghị Trung – Việt, kiểm soát các mâu thuẫn và bất đồng, kiên trì
hiệp thương hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề
trên biển mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Chúng ta cần thực hiện
toàn diện và hiệu quả “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Ðông”, tích
cực thúc đẩy tham vấn về “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Ðông”, cùng nhau giữ
gìn hòa bình và ổn định trên Biển Ðông (Xi, 2017).
Giọng
điệu tích cực và mang tính xây dựng của ông Tập trong bài viết đã được
phản ánh trong bản tuyên bố chung mà hai bên đưa ra cuối chuyến thăm.
Bản tuyên bố chung đề cập nhiều hoạt động hợp tác khác nhau giữa hai
nước cũng như giữa hai đảng cộng sản. Tuy nhiên, khoảng 90% nội dung của
bản tuyên bố gần như y hệt bản thông cáo chung được đưa ra sau chuyến
thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Trung Quốc hồi tháng Giêng
2017.
Một
hoạt động hợp tác đáng chú ý được nêu trong bản tuyên bố chung là việc
hai bên thỏa thuận thực hiện một bản ghi nhớ chung trước đó về việc kết
nối Sáng kiến Vành đai và Con đường với sáng kiến “Hai hành lang, một
vành đai kinh tế” của Việt Nam vốn được thông qua hồi năm 2004. Điều này
phù hợp với mong muốn của Trung Quốc là đưa các dự án hạ tầng hiện hữu
hoặc đã có từ lâu vào trong khuôn khổ của Sáng kiến Vành đai và Con
đường mới được đề xuất. Theo tuyên bố chung, hai bên đang lập kế hoạch
xây dựng một tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn nối tỉnh biên giới Lào Cai
với Hà Nội và Hải Phòng, có thể được tài trợ một phần bởi nguồn vốn từ
Trung Quốc. Cho tới nay, bất chấp sự ủng hộ của Việt Nam dành cho Sáng
kiến Vành đai và Con đường , chưa một dự án hạ tầng mới nào ở Việt Nam
được xác định do Sáng kiến này bảo trợ. Trong khi đó, các sáng kiến hợp
tác kinh tế khác được nêu trong bản tuyên bố chung bao gồm việc thiết
lập các khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới và việc sử dụng đồng Nhân
dân tệ trong quan hệ đầu tư và thương mại song phương vẫn chưa đạt được
những tiến triển đáng kể nào dù đã được thảo luận mấy năm nay.
Về
hợp tác quân sự và an ninh, không có sáng kiến mới nào được nêu ra. Bản
tuyên bố chỉ nhắc lại các cam kết song phương trước đây như tăng cường
hợp tác quốc phòng – an ninh và thực thi pháp luật, thực hiện Tuyên bố
Tầm nhìn Chung về Hợp tác Quốc phòng tới năm 2025, sử dụng đường dây
nóng giữa hai Bộ Quốc phòng một cách hiệu quả, tổ chức giao lưu quốc
phòng biên giới và đối thoại quốc phòng chiến lược, và tiến hành các
cuộc tuần tra chung trên Vịnh Bắc Bộ. Những biện pháp hợp tác này ít
thực chất và dường như chủ yếu nhằm mục đích duy trì sự can dự giữa hai
bên với nhau và làm cho quan hệ song phương trông có vẻ toàn diện hơn.
Về
vấn đề Biển Đông, hai bên không đưa ra một sáng kiến mới nào để quản lý
tốt hơn các tranh chấp này mà thay vào đó nhắc lại các cam kết xử lý ổn
thỏa các vấn đề và thúc đẩy hợp tác nhằm duy trì hòa bình và ổn định
trên Biển Đông. Hai bên cũng thống nhất đẩy nhanh đàm phán về việc phân
định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và hướng tới việc sớm ký kết một Bộ
Quy tắc Ứng xử của các Bên trên Biển Đông (COC). Tuy nhiên, các cam kết
này đã được đưa ra trong các bản tuyên bố chung trước đây và vẫn chưa có
tiến triển thực chất. Trong khi đàm phán về việc phân định vùng biển
ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ đã bị bế tắc hơn 10 năm nay thì giữa hai bên vẫn
tồn tại khác biệt rất lớn về lập trường đối với bản chất pháp lý cũng
như phạm vi áp dụng của COC, khiến việc sớm ký kết một bản COC có hiệu
quả vẫn là một khả năng xa vời.
Trong
chuyến thăm hai bên đã ký 15 văn bản hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác
nhau và một số hợp đồng thương mại với giá trị không được tiết lộ. Chủ
tịch Tập cũng đã khánh thành Cung Hữu nghị Việt – Trung và Trung tâm Văn
hóa Trung Quốc tại Hà Nội. Tổ hợp này có giá trị đầu tư 800 tỷ đồng,
hai phần ba trong số đó là do Trung Quốc viện trợ không hoàn lại. Lễ
động thổ công trình này được tiến hành năm 2004 nhưng mãi tới tháng
3/2015 việc xây dựng thực sự mới bắt đầu (Toàn Vũ, 2017). Vì vậy, công
trình này có thể được xem như là một phần trong chiến dịch “tấn công
quyến rũ” của Bắc Kinh nhằm cải thiện nhận thức của người Việt Nam đối
với Trung Quốc vốn đã trở nên xấu đi rất nhiều sau sự kiện Khủng hoảng
giàn khoan tháng 5/2014. Đây cũng là một phần trong nỗ lực của Trung
Quốc nhằm mở rộng ảnh hưởng văn hóa của mình lên Việt Nam. Trớ trêu
thay, Việt Nam dù là quốc gia Hán hóa mạnh nhất tại Đông Nam Á nhưng lại
đang chống lại các ảnh hưởng văn hóa không mong muốn từ phương Bắc, một
phần do tình cảm chống Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ xuất phát từ tranh
chấp Biển Đông. Ví dụ, một đề xuất của Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số
học giả nhằm đưa việc dạy tiếng Hoa vào chương trình giáo dục tiểu học
đã bị phần lớn công chúng phản đối. Tương tự, chỉ mới có một Viện Khổng
Tử hiện đang hoạt động tại Việt Nam so với 2 ở Malaysia, 4 ở
Philippines, 6 ở Indonesia và 15 ở Thái Lan (Confucius Institute
Headquarters, 2017).
Các nhân tố kéo – đẩy trong quan hệ Việt Trung
Chuyến
thăm thứ hai của Chủ tịch Tập Cận Bình tới Hà Nội trong vòng hai năm
theo sau một loạt các chuyến thăm của các lãnh đạo cấp cao Việt Nam tới
Trung Quốc có thể được xem như chỉ dấu rõ ràng của việc hai bên nỗ lực
cải thiện sự tin cậy song phương và khôi phục quan hệ sau một số sự cố
gần đây liên quan đến tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên xu hướng quan hệ
song phương vẫn chưa chắc chắn. Một số nhân tố “kéo và đẩy” đã khiến cho
quan hệ song phương biến hóa thành những trạng thái khác nhau và thường
xuyên thay đổi phụ thuộc vào sự thay đổi trọng lượng tương đối của
những nhân tố này theo thời gian. Phức tạp hơn, một số nhân tố kéo lại
chứa đựng các yếu tố đẩy và ngược lại, khiến cho việc đánh giá bức tranh
cũng như chiều sâu thực tế của quan hệ song phương trở nên khó khăn
hơn.
Yếu
tố đầu tiên và quan trọng nhất giúp kéo hay bên lại gần nhau trong vòng
ba năm qua chính là mong muốn khôi phục quan hệ song phương sau sự cố
giàn khoan năm 2014. Tuy nhiên, do tranh chấp Biển Đông vốn là nguyên
nhân gốc rễ của khủng hoảng 2014 cũng như các căng thẳng song phương vẫn
chưa được giải quyết nên việc quan hệ hai bên ấm lên trong thời gian
gần đây dường như là một quá trình thụ động và không bền vững. Nếu các
căng thẳng lớn trên biển tiếp tục bùng phát, các tiến bộ gần đây trong
quan hệ song phương có thể bị đảo ngược.
Một
nhân tố khác kéo hai bên lại gần nhau hơn là quan hệ hợp tác kinh tế
ngày càng sâu sắc giữa hai nước. Như đã đề cập ở phần trước, quan hệ
thương mại và đầu tư song phương đã chứng kiến những bước tiến vững chắc
trong những năm gần đây. Đặc biệt, thâm hụt thương mại được thu hẹp của
Việt Nam với Trung Quốc và việc Trung Quốc tăng cường đầu tư vào Việt
Nam đã làm cho quan hệ kinh tế song phương cân bằng hơn, mang lại một
động lực lớn, đặc biệt là cho Việt Nam, nhằm duy trì quan hệ song phương
thân thiết. Cùng lúc đó, các sáng kiến kinh tế khu vực mới của Trung
Quốc như Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng châu Á và Sáng kiến Vành đai và Con
đường đã mang lại những không gian mới cho hợp tác kinh tế song phương.
Nguồn vốn từ những sáng kiến này tỏ ra hấp dẫn đối với Việt Nam nếu xét
tình trạng thâm hụt ngân sách lớn cũng như nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng
ngày một gia tăng của Hà Nội. Tuy nhiên, các quan ngại vẫn còn phảng
phất trong quan điểm của Hà Nội về ảnh hưởng kinh tế không mong muốn của
Bắc Kinh cũng như nhận thức tương đối tiêu cực của công chúng Việt Nam
đối với các công trình hạ tầng và công nghiệp được tài trợ vốn bởi Trung
Quốc (ví dụ, xem Hiep, 2017a, Chương 5) khiến cho tác động tích cực của
các sáng kiến này lên quan hệ song phương bị hạn chế đáng kể.
Ý
thức hệ cộng sản chung giữa hai nước từng là một yếu tố quan trọng giúp
kéo hai nước lại gần nhau. Tuy nhiên, việc hai đảng cộng sản theo đuổi
các cải cách kinh tế theo hướng thị trường tư bản chủ nghĩa và việc chủ
nghĩa cộng sản sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu đã làm suy giảm tầm quan
trọng của các cân nhắc về ý thức hệ trong quan hệ song phương. Cùng lúc
đó, chủ nghĩa dân tộc đã trỗi dậy trở thành một trụ cột ngày càng quan
trọng trong tính chính danh của hai đảng cộng sản, khiến cho hai nước có
xu hướng tách rời nhau ngày càng xa hơn khi mỗi đảng đều cố gắng thể
hiện hình ảnh như là người bảo vệ tối hậu cho chủ quyền quốc gia và toàn
vẹn lãnh thổ trên Biển Đông. Do đó, giờ đây lợi ích quốc gia chứ không
phải các lý tưởng cộng sản chung đang quyết định cách thức hai đảng cộng
sản nhìn nhận và quản lý quan hệ song phương.
Cuối
cùng, các thay đổi trong bối cảnh địa chiến lược khu vực cũng tạo ra
các nhân tố “kéo và đẩy” mới, đóng góp vào các động lực vốn đã khó lường
của quan hệ song phương. Do Trung Quốc tiếp tục trỗi dậy, các đối thủ
địa chính trị khu vực của nước này, đặc biệt là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Ấn
Độ, đã tăng cường quan hệ chiến lược với Việt Nam nhằm ứng phó lại sức
mạnh và ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Chuyến thăm của
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tới Hà Nội ngay trước chuyến thăm của ông
Tập là một ví dụ rõ ràng cho nỗ lực đó. Cảm nhận được áp lực ngày càng
tăng từ Trung Quốc trên Biển Đông, Việt Nam cũng cởi mở trước các động
thái ngoại giao và chiến lược này của các cường quốc, điều có xu hướng
đẩy Hà Nội ra xa Bắc Kinh.
Tuy
nhiên, sự xích lại gần nhau giữa Việt Nam và các cường quốc cũng có xu
hướng tạo ra một tác động “kéo” lên quan hệ Việt – Trung khi Bắc Kinh
cũng cảm thấy cần kéo Việt Nam trở lại quỹ đạo của mình. Do vị trí địa
lý quan trọng của Việt Nam, Trung Quốc sẽ không muốn thấy Việt Nam tham
gia vào một liên minh chống Trung Quốc cùng với các cường quốc khác. Do
đó, trong khi tìm cách bánh trướng trên Biển Đông, Trung Quốc cũng cố
gắng để ít nhất giữ Việt Nam trong tầm với và thuyết phục Hà Nội về các
lợi ích chiến lược của việc duy trì quan hệ thân thiết với Bắc Kinh và
giữ khoảng cách với các đối thủ chiến lược của Trung Quốc, đặc biệt là
Washington. Ví dụ, mặc dù Trung Quốc không đưa ra một phản ứng chính
thức nào về chuyến thăm của Tổng thống Trump tới Hà Nội nhưng tờ Hoàn Cầu thời báo đã cho đăng một bài xã luận ngày
12/11/2017 tuyên bố rằng hợp tác Việt-Trung là “xu thế lớn” và các
cường quốc bên ngoài đừng hòng tìm cách can thiệp vào quan hệ song
phương để chia rẽ hai nước (Global Times,
2017). Về phần mình, càng xích lại gần các cường quốc khác thì Hà Nội
càng cảm thấy có nhu cầu thúc đẩy quan hệ với Bắc Kinh. Một cách tiếp
cận như vậy là cần thiết để giúp Hà Nội trấn an Bắc Kinh về chính sách
đối ngoại cân bằng của mình cũng như đề phòng các phản ứng thái quá của
Bắc Kinh.
Kết luận
Phân
tích trên cho thấy các cải thiện trong quan hệ Việt – Trung có thể
không thực chất và mối quan hệ có vẻ gần gũi giữa hai quốc gia bạn-thù
(frenemy) lâu năm này có thể chỉ là trên bề mặt mà thôi. Các yếu tố kéo
và đẩy trong quan hệ song phương khiến cho hai nước không thật lòng muốn
xích lại gần nhau. Các lợi ích song phương trong hợp tác kinh tế có thể
biện minh cho các nỗ lực của hai bên nhằm duy trì một mối quan hệ ổn
định và hòa bình nhưng chúng vẫn chưa đủ lớn để mang lại một mức độ thân
mật chiến lược giữa hai nước. Sự thiếu hụt niềm tin và sự khác biệt về
lợi ích chiến lược sẽ không được cải thiện trong đoản và trung kỳ. Thay
vào đó, chúng có thể trở nên trầm trọng hơn do các căng thẳng ngày càng
gia tăng trên Biển Đông cũng như chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy ở cả
hai nước.
Do
đó, các tiến triển gần đây trong quan hệ song phương nói chung và
chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình tới Việt Nam nói riêng sẽ khó có
thể giúp chuyển biến quan hệ song phương một cách tích cực và có ý
nghĩa. Tuy nhiên, hai bên sẽ tiếp tục cố gắng “ôm” lấy nhau. Trong khi
Trung Quốc muốn giữ Việt Nam trong quỹ đạo của mình và ngăn Hà Nội ngã
sâu hơn vào vòng tay của các đối thủ chiến lược thì Việt Nam, như tác
giả đã nhận xét trong một bài viết gần đây (Hiep,
2017b, p. 7), cũng muốn tiếp tục “ôm chặt” Trung Quốc nhằm kiềm chế sự
hung hăng của Bắc Kinh và tạo thuận lợi cho việc xích lại gần các cường
quốc khác. Vì vậy, chuyến thăm ít có ý nghĩa đối với quan hệ song phương
cũng như các động lực địa chính trị của khu vực.
Lê Hồng Hiệp là nghiên cứu viên chính tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute), Singapore.
Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được đăng trên ISEAS Perspective, ngày 18/12/2017.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét