Biên dịch: Đặng Thế Đại
Từ
lâu nay người ta đã biết và đồng ý với nhau rằng Huỳnh Phú Sổ thành lập
Phật giáo Hòa Hảo vào ngày 18-5 năm Kỷ Mão (1939) ở quê hương ông –
làng Hòa Hảo nay là làng Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.[1] Để
hiểu rõ hơn lịch sử mới đây của tín ngưỡng này cũng như của cộng đồng
tín đồ của nó, chúng tôi giới thiệu một tài liệu đầu tiên bằng tiếng
Pháp nhắc đến cuộc đời của Huỳnh Phú Sổ và sự xuất hiện của phong trào
tôn giáo mới do ông khởi xướng. Tài liệu ấy có đề cập đến vấn đề về sự
hình thành giáo lý của phái Phật giáo này nhưng không vì thế mà có ý vén
đi tấm màn linh thiêng bao phủ quanh nhân vật Huỳnh Phú Sổ.
Nó
cũng không đặt ra vấn đề làm rõ thực chất và những khả năng có tính mầu
nhiệm của người thanh niên ấy – một nhà sư khác lạ, một thày lang. Nó
cũng không phân tích cái “cơ duyên” khởi dậy từ những nhân tố khác nhau
(không gian xã hội cụ thể, những thời điểm xác định, những ảnh hưởng lẫn
nhau giữa sự thần khải có tính tiên tri và môi trường huyền bí, những
hình thái và cách thức truyền bá những lời giảng), mà chỉ riêng sự kết
hợp của chúng thôi cũng đôi khi gây ra, trình diễn hay ít ra cũng phải
dẫn đến tái diễn sự hậu nghiệm, giải thích sự “thiên khải” và sự xuất
hiện của một nhân vật cứu thế.
Dù
vắn tắt và không rõ ràng, bản tài liệu mà chúng tôi đang nói tới vẫn là
một tư liệu không kém phần căn bản để nghiên cứu về sự xuất hiện của
Phật giáo Hòa Hảo. Nó cung cấp những sự kiện cơ bản về tiểu sử Huỳnh Phú
Sổ, chỉ ra thời điểm phát hiện ra hiện tượng tôn giáo này, và cuối
cùng, nó cho phép tập hợp những đánh giá của chính quyền sở tại cùng
phản ứng tiếp theo của chính quyền thuộc địa.
Hòa
Hảo cho đến đầu thế kỉ XX là một ngôi làng yên tĩnh thuộc tổng An Lạc,
quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Cái tên hiền lành của nó gợi nên “sự hài
hòa hết mực”. Vị trí địa lí cũng như những điều kiện thủy văn và thổ
nhưỡng địa phương (vùng đất cao, ít phèn, ít lụt lội) cắt nghĩa sự tụ cư
lâu đời và thịnh vượng của nó so với khu vực. Ngôi làng không chỉ được
bao quanh bởi hai nhánh của sông Mê Kông[2] mà
còn bởi một dòng hợp lưu tự nhiên của chúng là con sông Vàm Nao. Chiếm
vị trí tận cùng của một doi đất, ngôi làng hướng mặt về phía đất liền
của doi đất này, hoàn toàn mở ra về phía Đồng Tháp Mười, Hậu Giang và
huyện Chợ Mới (tỉnh Long Xuyên) ở phía đối diện với nó. Đồng thời, ngôi
làng cũng phát triển về phía ven sông và có một vùng đất rộng trồng lúa.
Dưới
con mắt cảnh giác của chính quyền thuộc địa, các thôn làng khác ở vùng
này vẫn bị coi là chống đối, tựa như các địa phương này ngay từ những
năm 1860 đã tỏ ra là các căn cứ kháng chiến chống cuộc xâm chiếm của
Pháp (cuộc khởi nghĩa của Trần Văn Thành ở Bảy Thưa), rồi thời gian sau
đó còn là nơi trú ngụ của các tổ chức yêu nước đầu tiên, hay là nơi xuất
hiện các chi bộ tiền cộng sản trong thời kì giữa hai cuộc đại chiến.
Sau các cuộc biến loạn những năm 1930-31, sự kiểm soát được siết chặt
hơn đối với các tổ chức này. Đó cũng là những tổ chức kể từ thời gian đó
trở đi đã tố cáo thẳng thừng sự đồi bại của chế độ thực dân và sự hỗn
loạn trong cơ cấu của chế độ khai thác lúa gạo theo kiểu điền trang, mà
trực tiếp vì nó, tầng lớp nông dân nhỏ ở đồng bằng sông Mê Kông bị đẩy
vào khốn khó, nợ nần và phá sản.
Quận
Tân Châu không biết tới tình trạng khủng hoảng đặc biệt ấy do tính chất
tương đối lâu đời của sự thành lập các làng, do sự đa dạng của các hoạt
động kinh tế, do cơ cấu ruộng đất bị chia nhỏ hơn[3] và
cuối cùng là do những quan hệ thông cảm lẫn nhau giữa các địa chủ nhỏ
và những người lĩnh canh. Nhưng quận Tân Châu và làng Hòa Hảo, như một
ốc đảo, nằm ngay bên các trung tâm bất ổn về xã hội – chính trị của Miền
Tây Nam Bộ.
Dưới
góc độ tín ngưỡng và thực hành tôn giáo, đồng bằng sông Mê Kông nổi bật
trước hết bởi sự có mặt của các truyền thống tôn giáo lớn có liên quan
trực tiếp đến cơ cấu đa sắc tộc của khu vực này.[4] Thêm
vào tình trạng đó là sự chằng chịt của các loại tín ngưỡng bình dân
đang đòi hỏi một sự nghiên cứu có tính chất chuyên khảo và sẽ hứa hẹn
một luận văn có tính chất tổng hợp nhỏ. Tạm thời, chúng tôi mới chú ý
đến những dữ kiện căn bản: đó là Tam giáo,
một sự hỗn hợp có tính chất bình dân và theo kiểu biến hình của Nho
giáo, Phật giáo và Đạo giáo mà ngay từ đầu đã bị giải thích lại rất
nhiều và mang tính chất địa phương, do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những
sự tiếp thu Nho giáo không chắc chắn của các tổ chức xã hội ở đồng bằng
sông Mê Kông, từ khuynh hướng mang dáng vẻ bình dân của Đạo giáo làm
thương tổn cho những quan niệm siêu hình ấy và từ quy chế lỏng lẻo của
Phật giáo Đại thừa Việt Nam. Trong khu vực này, từ thời khai khẩn, khi
mà tầng lớp nho sĩ không nhiều, quần chúng nông dân, những người khai
phá đất đai, thay vì tìm đến họ, đã hướng về những người lập làng lập
ấp, những nhà sư hay những ẩn sĩ Đạo giáo. Những người này đã cùng nhau
thúc đẩy đời sống xã hội, truyền bá những giáo huấn về đạo đức, và còn
là những thầy lang chữa bệnh theo cách thức cổ truyền.
Những
cuộc tiếp xúc lẫn nhau giữa các thành phần dân cư, mỗi thành phần mang
theo một kho tàng riêng về văn hóa cổ truyền, về các truyền thuyết, về
các văn bản cổ, hệ quả là dẫn đến những cách thức tiếp xúc văn hóa bình
đẳng có thể nhận thấy trong lĩnh vực tín ngưỡng bình dân. Mặt khác, thời
kì thuộc địa của Pháp đã đẩy nhanh những biến đổi xã hội ở đồng bằng
sông Mê Kông và áp đặt một tầng thứ hai của sự tiếp xúc văn hóa trong
hoàn cảnh thống trị về chính trị (những tiếp xúc Đông – Tây), thuận lợi
cho các tư duy liên tôn giáo, hay ngược lại, cho những phản ứng văn hóa.[5]
Xét
vấn đề từ tính chất phức tạp của tình trạng ở địa phương – tình trạng
làm xuất hiện trên một mặt bằng như vậy những truyền thống tôn giáo cùng
những biểu lộ không chính thống hay hỗn hợp của chúng, và sau đó lại có
nhân tố đến từ phương Tây vừa gây ra sự phản ứng về văn hóa vừa tạo
điều kiện cho những tín ngưỡng cứu thế – chính quyền thuộc địa do những
lệch lạc về tư tưởng tự coi là mình có sứ mệnh khai hóa đã nhanh chóng
hướng cái nhìn phê phán về phía các tín ngưỡng bình dân cũng như về các
tôn giáo và triết học lớn của phương Đông. Thêm vào đó, lo lắng cho sự
vững vàng lâu dài của chế độ, chính quyền đã coi những người truyền
giảng các đạo này như những nhà sư phản nghịch hay các gian đạo sĩ.
Chính quyền đã ngờ rằng những người có uy tín nhất trong số đó đang sống
ẩn dật trong các vùng núi cao hiu quạnh vùng Thất Sơn là nguồn gốc của
các bất ổn trong dân chúng hay các cuộc nổi loạn. Quan niệm này ít nhất
đã góp phần coi các tín ngưỡng bình dân địa phương, trước hết là Bửu Sơn
Kì Hương (hương thơm trên núi quý), là nhân tố xấu.
Nhiều
hiện tượng giáo phái (trong đó có một số mà cảnh sát thuộc địa không dò
tìm ra) trên thực tế đã dựa vào Bửu Sơn Kì Hương về mặt giáo lí (Đạo
Lành, Tứ Ân Hiếu Nghĩa) hay tín điều (vụ hoàng đế tự phong Phan Xích
Long trong những năm 1913-1916). Từ nửa đầu thế kỉ XIX, người sáng lập
Bửu Sơn Kì Hương là Đoàn Minh Huyên đã truyền bá dưới hình thức sấm
giảng một đạo Phật thân thiện và thế tục, phù hợp với cuộc sống nghèo
khổ của những người nông dân khai phá đất đai ở trong vùng. Trong khi
chữa bệnh và viễn du liên miên, những hoạt động ấy của ông cũng đem lại
cho ông một vai trò xã hội trong việc thành lập những thôn ấp mới. Phật
Thày Tây An (vị Phật-Thày an lành cho Miền Tây) đã khuyến khích đồng bào
sống theo tình thương Phật giáo, hướng dẫn họ thực hành đạo lí của ông
về tu thân, coi trọng Tứ ân đối
với Tổ tiên, Đất nước, Tam bảo và toàn thể Nhân loại. Thực hành giáo
huấn của ông, mọi người sẽ đạt tới sự giải thoát sau cuộc tham dự vào
Đại hội Long hoa trên Bửu Sơn (núi quý, được giải thích như là đỉnh cao
nhất của Thất Sơn) để đón Minh Vương (Vua Sáng). Sự xuất hiện của Minh
Vương sẽ chấm dứt thời đại hỗn loạn và bắt đầu một kỉ nguyên mới của hài
hòa (Kì Hương) chuẩn bị bước tới Tây Phương (Thiên Đường ở phương Tây)
của Phật Adiđà. Không kể tấm gương cụ thể về sự khuyến khích của nó
trong đời sống (khai khẩn đất đai và lập nên các làng mới), Bửu Sơn Kì
Hương còn là cái nôi về giáo lí cho nhiều phong trào giáo phái nơi vùng
biên giới của Nam Kỳ. Chẳng hạn, một số giáo phái đã áp dụng, thực hành
lại hay có bổ sung, những nguyên tắc tinh thần của Bửu Sơn Kì Hương,
trong khi đó, một số khác hoặc là mưu toan kế thừa di sản tiên tri của
Phật Thày Tây An, tự đóng vai trò là người thừa kế trung thành và chính
đáng của ông, hoặc là giải thích lại nhân vật Minh Vương huyền thoại
đồng thời khởi phát một tín ngưỡng cứu thế có nguồn gốc từ truyền thống
Phật giáo và những thứ đạo khác có liên quan.
Thời
kì giữa hai cuộc đại chiến có một vài sự kiện mới gây chú ý đối với
chính quyền thuộc địa: Đạo Cao Đài, một phong trào tâm linh và tôn giáo
có tính chất tổng hợp, đã chính thức thành lập vào năm 1926. Được hưởng
sự khoan dung tương đối, nó đã nhanh chóng trở thành một trong những tôn
giáo có đông quần chúng nhất trên toàn Nam Kỳ. Phong trào chấn hưng
Phật giáo Đại thừa hướng đến việc tái tổ chức và thống nhất Tăng đoàn,
in ấn và dịch kinh sách sang Quốc ngữ, rốt cuộc cũng đã khiến chính
quyền bận tâm, tìm cách định quy chế cho những hội đoàn Phật giáo mới và
ngăn ngừa mọi phong trào quần chúng có khả năng đưa tới sự phản loạn.
Trong
suốt thời kì hình thành nên những biểu hiện chính trị mới ấy, một thời
kì vừa tiếp diễn những sự thờ cúng bình dân vừa ló dạng những tín ngưỡng
mới, làng Hòa Hảo không gây chú ý bởi bất kì một hoạt động tôn giáo bất
thường nào. Không có bất cứ một tiếng vang đặc biệt nào, ngôi đình làng
và chùa làng (An Hòa Tự) không được xếp vào hàng những địa chỉ hành
hương. Dân cư trong làng ít cảm nhận trước các tín ngưỡng mới và dường
như thiên hơn về sự cách tân Phật giáo hay thờ cúng những vị thần địa
phương, thần Thành hoàng và thờ Mẫu, nhất là Bà Chúa Xứ, vị thần tỏa
sáng từ trên núi Sam. Sự dửng dưng ấy được giải thích chủ yếu là do sự
thấm đẫm của truyền thống Bửu Sơn Kì Hương – được xem như một vectơ chỉ
dẫn cả về tinh thần và xã hội – trong văn hóa bình dân địa phương. Trên
thực tế, làng Hòa Hảo nằm lọt thỏm giữa một loạt các di tích khác nhau
của tín ngưỡng ấy[6] và
trong vùng ảnh hưởng của nó; và dường như sự hiện diện có tính biểu
tượng của Phật Thày Tây An trên điện thần Phật giáo ở chùa An Hòa Tự[7] có
thể xác nhận điều đó dẫu cho không hề có một ông đạo nào xuất hiện ở
làng này trong hơn 70 năm dưới chế độ thực dân. Làng Hòa Hảo sống trong
cái nhịp điệu của các công việc đồng áng mùa vụ, của những buôn bán ven
sông, của các lễ hội được tổ chức thường kì trong năm tại đình hay chùa,
của việc thực hành tu theo Phật giáo tại gia. Cho tới khi có tin tức về
sự mở màn cuộc Đại chiến thế giới II vào tháng 9-1939, sự yên bình vẫn
ngự trị ở đây.
Nhưng
vào tháng 2 năm 1940, ngôi làng bắt đầu khiến người ta phải nói đến nó.
Do những nỗ lực nhằm vây bắt các tổ chức cộng sản bị cấm hoạt động bởi
sắc lệnh 26-9-1939, những truyền đơn của những người theo chủ nghĩa Stalin bị phát hiện[8] (đây
là lần đầu tiên) ở làng Hòa Hảo quận Tân Châu vào 9-2-1940. Đặc biệt là
vào những tháng tiếp theo, một sự kiện hoàn toàn khác về bản chất đã
thực sự đặt chính quyền địa phương vào tình trạng báo động. Trong một
bản thông tri vào ngày 15-3-1940, các ông Đốc phủ sứ Thái Minh Phát,
người đứng đầu về hành chính của quận Tân Châu, và phó của ông ta là
Nguyễn Văn Lễ đã thông báo cho các cơ quan tỉnh về một trường hợp theo
thuyết thần bí được phát hiện ở Châu Đốc.[9] Đây cũng là lần đầu tiên cái tên Huỳnh Phú Sổ và “sứ mệnh” tự xưng của ông được nhắc đến.
Người
thanh niên 21 tuổi ấy là “con trai của hương cả Huỳnh Công Bộ” và là
“cựu học sinh của Trường tiểu học Tân Châu”. Vừa qua khỏi “cơn bệnh nặng
và kéo dài”, anh ta đã bộc lộ thiên hướng “chấn hưng đạo Phật”. Giống
như “một nhà sư giàu kinh nghiệm”, anh ta đã truyền giảng mà không cần
tới kinh sách; giống như “một nhà nho già”, anh ta bắt đầu làm những bài
thơ bằng chữ Hán mà không cần biết chữ Hán. “Thiên tư phi thường” ấy
còn đi kèm với một “năng lực chữa bệnh […] bằng hương và giấy vàng”.
Danh tiếng của anh ta nổi đến mức không chỉ rất nhiều “tín đồ” đến thăm
viếng anh từ khắp nơi mà cả một số đáng kể ở ngay Phú Tân và Hòa Hảo
cũng bị cha anh ta xua đuổi bởi những phiền phức do họ gây ra và do sự
thăm viếng của họ đã “biến nhà của ông thành ngôi chùa”. Được kính trọng
như một “người thầy”, bản thân anh ta tự nhận là “hiện thân […] của
thần linh” và đã được tôn kính dưới các cái tên “Cậu Tư”, “Thầy Tư”,
“Bác Khùng”. Tóm lại, bản thông tri này cho biết mật thám ở Sa Đéc đang
theo dõi thêm về anh ta.
Từ
tài liệu này chúng ta có thể suy ra là Huỳnh Phú Sổ xuất thân từ một
gia đình tương đối khá giả và có chút ít danh vọng ở Hòa Hảo. Trong vùng
này, mọi trẻ em quả thực đều không có điều kiện được hưởng sự giáo dục
Pháp-Việt, ngay cả ở cấp tiểu học, không được đến một ngôi trường như
vậy ở thị trấn của quận. Cha của Huỳnh Phú Sổ quả thật là có danh vọng ở
địa phương nhờ kinh nghiệm và tài sản, những thứ đem lại cho ông một
cương vị là Hương cả (chủ tịch hội đồng thân hào của làng).[10] Được
trợ giúp bởi người có địa vị phó cho ông (Hương sư), ông chăm lo đến
toàn bộ các công việc quan trọng trong làng, nhất là ông tự xem bản thân
như người canh giữ thuần phong mĩ tục, người bảo vệ các truyền thống,
các chức năng mà ông có vẻ như đặc biệt yêu thích. Điều ấy thể hiện qua
những sáng kiến bận rộn để trùng tu chùa An Hòa năm 1936 hay để xây dựng
một ngôi am mới dành cho những hoạt động tôn giáo của con trai ông.
Người
thanh niên ấy được thiên phú cho sức hấp dẫn riêng và không thể giải
thích điều ấy chỉ bằng thanh danh của người cha trong làng. Bản tài liệu
không khẳng định rằng cái “thiên tư phi thường” ấy được lan truyền chủ
yếu là nhờ những đồn đại trong dân chúng. Nếu như khả năng xuất khẩu
thành chương của Huỳnh Phú Sổ được thừa nhận về sau này thì sự hiểu biết
của anh về chữ Hán là rất không đáng tin hoặc rất hạn chế. Tóm lại,
không thể nói nhiều về nguồn gốc thần bí của những phép mầu của anh. Chỉ
có những sự kiện xác thực về sự phát triển sớm khả năng hấp dẫn của
Huỳnh Phú Sổ và về sự chữa khỏi một căn bệnh kéo dài ở anh mà từ đó làm
nảy sinh trong anh một thiên hướng tôn giáo. Anh rồi sẽ có thể chứng tỏ,
trong các bài giảng về sau, rằng “thời kì hành xác” này thực ra đi kèm
với “thời kì thụ pháp”: Những thày lang truyền thống mà anh đã gần gũi
để chữa bệnh ở các địa phương khác nhau vào cuối những năm 1930, đặc
biệt là ở vùng Thất Sơn, đã góp phần lớn vào việc khơi dậy trong anh cái
thiên hướng tôn giáo của một ông đạo theo truyền thống thuần khiết Bửu
Sơn Kì Hương.
Mặc
dù tài liệu này không đề cập gì đến nội dung xác thực của các bài
giảng, cũng không mô tả gì về nghi lễ, nhưng sự giống nhau ở Huỳnh Phú
Sổ với Bửu Sơn Kì Hương ngay từ bấy giờ ta có thể nhận thấy là trong
cách thức truyền bá bằng các bài nói. Sự tách biệt trong tài liệu này
giữa các bài giảng đạo Phật và các bài thơ có vẻ như không chính xác.
Ngay từ thời kì ấy, Huỳnh Phú Sổ thực tế là đã dạy đời bằng miệng và
dưới hình thức thơ – những bài thuyết giáo vừa áp dụng thuật dễ nhớ vừa
có tính cách giảng đạo. Huỳnh Phú Sổ cũng dùng những vần luật thơ ca
từng được Đoàn Minh Huyên và những người kế tục ông sử dụng. Một số
trong những ông này đã ghi lại các bài giảng của mình ra giấy. Bản tài
liệu không xác định rõ liệu những bài thơ được sáng tác bởi Huỳnh Phú
Sổ, theo ý kiến của họ, có phải là được cóp nhặt từ các tập thơ trên hay
không. Có một sự giống nhau nữa có thể nhận ra là về cách chữa bệnh.
Ngoài việc thường sử dụng hoa cho vào nước thuốc sắc từ thuốc nam, người
ta còn nói “giấy vàng” liên kết lại phép mầu của người thanh niên ấy
với phép mầu của Đoàn Minh Huyên. Những người bệnh đến khám quả thực đã
hi vọng rằng giấy vàng sau khi đốt thành tro và uống vào có thể chữa cho
họ khỏi bệnh tật và phòng ngừa cho họ khỏi dịch bệnh, thậm chí bảo vệ
họ trước ma quỷ. Huỳnh Phú Sổ cũng sử dụng cách thức vừa chữa bệnh vừa
giảng đạo Phật (lợi sanh nhi hoằng pháp).
Cuối
cùng, bản tài liệu này nói về những phẩm chất của Cậu Tư – Thầy Tư –
Bác Khùng. Những tên gọi này có liên quan đến những thuật ngữ của Đạo
giáo. Cậu và Thầy đều
có ý nghĩa kính trọng (cậu: ở đây là cách gọi thày trẻ tuổi), song
chúng còn kèm theo một ý nghĩa có liên hệ mật thiết với truyền thống Bửu
Sơn Kì Hương. Đoàn Minh Huyên cũng đã lưu danh hậu thế là Phật Thày đến
từ Tịnh Độ ở Tây Phương sau khi đã được gọi là Đạo Khùng vì thái độ
chống lại việc thờ tượng Phật và chủ trương giữa gìn sự thực hành đạo
Phật đích thực của ông. Trong con mắt của quần chúng nông dân, Huỳnh Phú
Sổ được xếp vào dòng kế tục của Đoàn Minh Huyên. Những cách gọi tên ông
xuất hiện ít lâu sau (nhất là “Đạo Khùng”) xác nhận sự kế thừa tinh
thần Bửu Sơn Kì Hương của Huỳnh Phú Sổ. Chúng cũng tạo cho Huỳnh Phú Sổ
tức Đạo Xen[11] sự
khác người trong dự định tôn giáo của ông mà để thực hiện nó ông sẽ
được hưởng một bối cảnh thuận lợi (môi trường mầu nhiệm đã có sẵn, phong
trào chấn hưng Phật giáo) và những thành quả của tính hiện đại (phương
tiện truyền thông, những kĩ thuật mới trong in ấn văn bản và hình ảnh).
Vào
lúc mà chính quyền sở tại ngày 15-3-1940 thông báo về trường hợp theo
thuyết thần bí này, chính bản thân nó bị bất ngờ trước hết, bởi danh
tiếng của chàng thanh niên Huỳnh Phú Sổ, theo như bản thông báo viết,
làm cho “tín đồ đến từ khắp nơi” và những thân hào hàng đầu cũng trở
thành môn đồ. Cái cảm tưởng bị bất ngờ ấy đặt ra một câu hỏi về lí do và
thời điểm phát hiện ra phong trào tôn giáo này.
Có
phải do những sự thăm viếng đi lại tăng lên bất thường trong làng từ
thời gian ấy đã gây chú ý? Có phải do một vài thân hào nào đó trong làng
hay do những người đi ngang qua làng hay do những nhân viên mộ lính đã
cấp báo cho nhà cai trị? Có phải việc theo dõi các phong trào chính trị
và việc phát hiện truyền đơn của các cơ quan cảnh sát đã đưa tới sự quan
tâm đặc biệt hướng vào ngôi làng? Không có một giả thiết nào trong số
đó được xác nhận.
Việc
phát hiện ra phong trào tôn giáo này thật ra bắt đầu từ một vụ đổ máu ở
Tân Châu vào tháng trước đó. Ngày 16 tháng Hai, khoảng vài chục người
đi theo Đạo Tưởng, tin rằng thân thể họ không thể bị thương và tin vào
thủ lĩnh của họ ở vương quốc định mệnh (Minh Hoàng Quốc), đã quyết định
dùng sức mạnh chiếm lấy huyện lị. Bị hoang tưởng rằng vụ rắc rối này là
sự trỗi dậy của hội kín Thiên Địa Hội,[12] tổ
chức đã tham gia vào vụ Phan Xích Long cách đấy hai thập kỉ, chính
quyền đã mở cuộc điều tra về các chân rết của hội kín này. Sự việc trước
đấy vào năm 1916 bắt giữ một nhà sư có liên lụy đến vụ Phan Xích Long[13] đi ngang qua làng Hòa Hảo chắc chắn là đã gợi ý cho chính quyền tìm hiểu về những sinh hoạt bên trong ngôi làng.
Mặc
dù phong trào hội kín ấy không có bất kì một mối liên hệ nào với hiện
tượng tôn giáo sau này, nhưng một tháng sau vụ rắc rối ở Tân Châu, những
hệ quả của nó đã dẫn đến việc phát hiện ra những hoạt động tiên tri của
Huỳnh Phú Sổ.
Điều
đó phải chăng có thể hiểu là “sứ mệnh” của người thanh niên Huỳnh Phú
Sổ bộc lộ ra vào đúng thời điểm ấy. Chắc chắn là không! Thực tế là đã
qua tám tháng kể từ lúc anh ta “thức tỉnh” tự xưng (4-7-1939) cho đến
lúc chính quyền phát hiện ra anh ta (15-3-1940). Sự nổi danh của anh ta
gây bất ngờ cho các cấp chính quyền thuộc địa được giải thích một phần
qua lời mào đầu, theo đó thì Huỳnh Phú Sổ đã chữa bệnh, tiến hành thuyết
giáo và tới vùng Thất Sơn nhiều lần một cách vô cùng kín đáo.
Nhưng
sự lặng lẽ này đã thực sự chấm dứt kể từ ngày 15 tháng Ba năm 1940. Kể
từ ngày đó, chính quyền thuộc địa tung ra một loạt các cuộc điều tra
chuẩn bị để định đoạt về số phận của “người thanh niên cuồng tưởng” ấy.
Chưa đầy hai tháng sau đó, Huỳnh Phú Sổ được yêu cầu tách khỏi những
người sùng bái mình để chuyển đến sống ở một tỉnh khác. Ngày 18 tháng
Năm năm 1940, ông rời ngôi làng quê hương và bắt đầu một cuộc viễn du
trên vùng đồng bằng sông Mê Kông./.
PGS TS Pascal Bourdeaux công tác tại Trường Cao Học Thực Hạnh (Ecole Pratique des Hautes Etudes), Paris. Tác
giả gửi bài này (nguyên bản tiếng Pháp) cho Toà soạn tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo. Bài viết được đăng lần đầu trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
số 6 (2005), trang 36-42, với tựa đề “Những ghi chép từ một tài liệu đầu
tiên bằng tiếng Pháp thuật lại sự xuất hiện của một giáo phái ở làng
Hòa Hảo (15-3-1940)”. Bài viết được đặt lại tựa đề và đăng lại trên
Nghiencuuquocte.net với sự cho phép của tác giả.
Hình: An Hòa Tự. Nguồn: Wikimapia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét