Thứ Hai, 25 tháng 12, 2017

Việt Nam đã tụt hậu và không còn thời gian để tụt hậu thêm


Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại kỳ họp.

Trong buổi làm việc với Hội đồng lý luận TW vào ngày 23/12, ông TBT Nguyễn Phú Trọng cho rằng: Chần chừ, chậm trễ sẽ bỏ lỡ thời cơ, sẽ ngày càng tụt hậu; song nóng vội, sao chép giản đơn kinh nghiệm nước ngoài, triển khai ồ ạt theo kiểu phong trào mà không tính đến đầy đủ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước cũng sẽ dẫn đến thất bại.


Cần nhấn mạnh rằng, những quan điểm chỉ đạo của ông Nguyễn Phú Trọng trong ngày 23/12 là những quan điểm mang tính tổng kết lại hơn là một sự chỉ đạo mang tính mới mẻ, đột phá về mặt lý luận. Do đó, không có quá nhiều điều để bàn, do ngôn ngữ chung chung. Mà bài viết chỉ bàn về mặt “tụt hậu” và không còn thời gian để “tụt hậu thêm”.

Những quan điểm của ông Tổng Bí thư cho rằng, không “nóng vội, sao chép giản đơn kinh nghiệm nước ngoài” là đúng, vì không phải đến thời kỳ ông Nguyễn Tấn Dũng lên nắm quyền, áp dụng nguyên xi mô hình Chaebol Hàn Quốc để làm nên những “quả đấm thép”, trong đó chưa thực sự loại bỏ những quan hệ chính trị ràng buộc, dẫn đến những quả tàu đắm mang tên Vinashine, mà ngay từ khi Nhà nước Việt Nam ghi nhận sự lãnh đạo của ĐCS từ năm 1959 đến nay (qua bản Hiến pháp 1959), thì Việt Nam luôn là một quốc gia sao chép mô hình nước ngoài một cách xơ cứng, xuất phát điểm từ lý luận mang tính giáo điều. Từ những mô hình công nghiệp nặng đi lên của Liên Xô với tham vọng biến nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền công nghiệp hiện đại của thập niên 60 (TK XX), đến phong trào cách mạng công nghiệp 5 năm của các đời TBT từ Lê Duẩn đến Nguyễn Văn Linh, mà quên mất Việt Nam hoàn toàn không có được điều kiện cơ sở mang tính công nghiệp như Liên Xô thời kỳ đầu.

Và đến nay, việc thay đổi mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 thành “cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” khi mà 10/15 tiêu chí hoàn toàn không đạt dược, trong đó có cả tỷ trọng công nghiệp chế tạo, nông nghiệp trong GDP. Sự không đạt về mặt mục tiêu được đề ra từ ĐH VII và liên tục được nhắc lại trong ĐH XII thực chất không khác gì việc từng chuyển đổi mục tiêu từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng như một cơ sở nền tảng từ ĐH III (1960) trở thành “ưu tiến phát tiển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” trong ĐH IV (1976), và rồi chuyển thành “xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng” tại ĐH V (1982). Mãi đến năm ĐH VI, mới bắt đầu xóa sổ công nghiệp nặng ra khỏi ưu tiên, nền tảng cơ sở, và đưa “công nghiệp nặng” trở thành “công nghiệp hóa”.

Sở dĩ phải thay đổi, không phải vì công nghiệp nặng không quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân (nó là sự tự chủ, là độc lập nền kinh tế), mà chính vì cơ sở của nền kinh tế Việt Nam chưa cho phép làm được điều đó, không có công nghệ, không có sự chuyển giao và giấc mơ công nghiệp đã “chấm dứt”.

Thứ hai, Việt Nam bỏ qua thời cơ vàng, không chỉ một, mà là nhiều lần. Từ những năm 70 – 90 của TK XX, Việt Nam đã không làm chủ được nguồn dầu khi giá dầu liên tục đạt đỉnh. Sự chuyển biến mạnh nền kinh tế từ năm 2000 - 2010, với thời cơ vàng “ngàn năm có một”, khi cơ cấu dân số Việt Nam là “vàng”, cơ hội hội nhập liên tục được mở rộng với việc gia nhập WTO trước cả Trung Quốc (cùng lúc đó là gia nhập và thực hiện tự do hóa thương mại với AFTA, APEC); kết cấu hạ tầng đáp ứng được nhu cầu phát triển mạnh về kinh tế - xã hội; Internet vào Việt Nam như luồng gió thổi mạnh; hệ lao động khu vực dịch vụ chiếm gần 30% tổng số lao động; nhịp độ tăng trưởng giá tị gia tăng khu vực công nghiệp ở ngưỡng 10%; tích lũy nội bộ nền kinh tế đạt 30% GDP – bội chi ngân sách, nợ nước ngoài, lạm phát, cán cân thương mại được kiểm soát; tốc độ tăng trưởng giai đoạn này với ngưỡng bình quân là 7% (có năm đạt 8% như năm 2006-2007).

Nhưng cuối cùng, giai đoạn vàng son đó đã không được tận dụng, luồng gió chính sách không được phát huy, luồng gió dân số vàng không được tận dụng và hiện giờ, mọi thứ đã đảo ngược: dân số đang già đi; tính tích lũy nền kinh tế giảm, bội chi, nợ công tăng,…

Vấn đề mà Việt Nam đang gặp phải là nhà nước vẫn chưa ngã ngũ giữa chức năng kinh tế và chức năng quản lý kinh tế. Giữa vấn đề gắn kết chính trị vào trong nền kinh tế qua tính “định hướng thị trường xã hội chủ nghĩa”, khiến đến hiện nay, sau rất nhiều lần vận động, Việt Nam vẫn không được Mỹ và EU cấp quy chế là nền kinh tế thị trường.

Nếu đặt vào cái gọi là cách mạng 4.0, thì những tư duy lý luận kiểu “định hướng xã hội chủ nghĩa” thực chất không khác gì với việc thiết lập mục tiêu tiến tới nền công nghiệp nặng vào năm 1960 là bao, bởi bản thân cả hai đều không có cơ sở nào để có thể làm được mục tiêu đó, nó thoát ly khỏi thực tế, nó đã không tính đến “điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước”, và tất nhiên như ông Tổng Bí thư nói là “sẽ dẫn đến thất bại”.

Việt Nam không còn quá nhiều thời gian để có thể thoát khỏi tụt hậu, khi mà ông TBT Nguyễn Phú Trọng vẫn mải mê với việc “nhấn mạnh” xây dựng chương tình làm việc của năm 2018 và những năm tiếp theo trong đó “tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ bản, từng bước bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn mới”.

Bởi nói như trước đó, nó có đâu mà “đi lên”, cơ sở kinh tế đã thay đổi chóng mặt, bắt buộc hình thái chính trị phải thay đổi theo để phát triển. Ngay cả giới giai cấp công nhân mà lý luận Marx đề ra thì nay đã phát triển đến mức mà Marx không hề nghĩ ra, đó là công nhân công nghệ với những người tài xế Uber, Grab hay là những người đào Bitcoin (loại tiền ảo mà Nhà nước Việt Nam đã ra quy định cấm). Tức bản thân ý thức và hình thái kinh tế xã hội đã thay đổi, kinh tế phải đổi, buộc chính trị phải thay đổi để đáp đáp ứng nhu cầu phát triển, điều này ông Nguyễn Phú Trọng với vị trí là người xây dựng đảng phải hiểu hơn ai hết, nhưng cớ sao ông vẫn cứ hãm sự phát triển của cả dân tộc vào trong cái Hội đồng lý luận TW – một Hội đồng vốn sinh ra đã bị quản thúc bởi lý luận giáo điều và xơ cứng rồi. Một Hội đồng lý luận làm sao có thể đưa ra lý luận phát triển khi mà ngay cả thành tố của sự phát triển là Bitcoin đã bị nhà nước cấm đoán, tương tự là hệ thị trường không phải mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đã qua rồi cái thời dựa vào kinh nghiệm để phát triển hay mò mẫm để tiến lên xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã quá lạc hậu và lạc hậu đến mức tụt hậu trong thời gian qua, do đó, đổi mới lý luận là thoát ly hoàn toàn những mộng tưởng về lý luận XHCN để trở về thực tế, đưa cải cách thể chế lên hàng đầu trong vực dậy nền kinh tế - xã hội hiện nay.

Lý do: Việt Nam không còn thời gian để tụt hậu thêm. Bởi nếu không, cả dân tộc sẽ xuống hố cả nút (XHCN).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét