Theo
Niên giám Thống kê Di dân (Yearbook of Immigration Statistics) của
chính phủ Mỹ, tôi là một trong 280,728 người Việt Nam đến Mỹ trong thập
niên 1980-1990. Nói như vậy để phân biệt với 135 ngàn đồng hương trong
đợt di dân đầu tiên vào những ngày trước 30 tháng 4 năm 1975, với khoảng
100 ngàn chú bác anh chị cựu tù nhân chính trị, với diện ODP và nhiều
diện khác đến sau. Chúng tôi được báo chí gọi chung cho một cái tên là
Thuyền nhân (Boat people). Hai chữ đó đã là nguồn sáng tác của nhiều bài
thơ, bút ký, nhạc phẩm mang đầy ký ức bi thương và hãi hùng trên biển
Đông.
Nhưng
cũng từ những khó khăn vất vả đó, những người tị nạn như tôi đã tìm đến
nhau, giúp đỡ nhau và xây dựng nên một tập thể được gọi là Cộng đồng
Việt Nam.
Không
giống như cộng đồng các sắc dân khác tại Mỹ, cộng đồng Việt Nam được ra
đời sau một cuộc chiến tranh dài với quá nhiều đau thương và chịu đựng.
Đọc lịch sử nước Mỹ, chúng ta biết rằng những người Đức, người Ý, người
Ba Lan khi đặt chân đến Mỹ, họ chỉ mang trên vai gánh nặng của tương
lai. Khi còi tàu rú lên báo hiệu giờ vào cảng Boston, New York, San
Francisco, cuộc đời họ được lật sang một chương khác. Họ dễ dàng hội
nhập vào xã hội kỹ nghệ Hoa Kỳ bởi vì họ đến từ một quốc gia kỹ nghệ. Họ
dễ dàng hội nhập vào lối sống, tập tục, văn hóa Mỹ bởi vì chính họ cũng
từ phong tục tập quán Châu Âu.
Cộng đồng Việt Nam thì khác
Đa
số người Việt đến đây từ một nền văn hóa phương Đông khép kín, với
những phong tục tập quán hoàn toàn khác với các sinh hoạt trong xã hội
Tây phương. Người Việt ra đi mang trên hai vai cả quá khứ đầy u uất và
một tương lai còn nhiều bất định. Trong hàng triệu người Việt vượt biên
bằng đường biển, bao nhiêu người khi ngồi trên ghe biết mình sẽ trôi dạt
về đâu? Tôi tin không ai biết chắc. Nhiều trong số họ đến được bến bờ
tự do khi chiếc áo chưa phai mùi khói súng và những vết thương trên da
thịt vẫn còn đang mưng mủ. Bom đạn đã thôi rơi nhưng sức chấn động như
vẫn còn nghe trong giấc ngủ quê người.
Sau
42 năm, đội ngũ người Việt như tôi đến trước hay đến sau thuộc nhiều
diện khác nhau, đã lên đến khoảng 3 triệu người, sống rải rác trên hàng
trăm quốc gia, từ Brazil đến Moroco, từ Cộng Hòa Nam Phi đến Do Thái. Họ
đã góp phần làm thay đổi khuôn mặt của những nơi họ ở, biến những khu
thải phế liệu thành những trung tâm thương mại khang trang, biến những
con đường vốn đầy tội ác thành những khu phố sầm uất. Họ đứng trước
những hàng rào về ngôn ngữ, văn hóa, thói quen, tập quán nhưng đa số đã
vượt qua. Họ tận dụng mọi cơ hội trong xã hội mới, đi làm hai ba việc
một ngày để lo cho con cái ăn học thành tài. Nhiều người Việt hải ngoại
thành công bởi vì họ biết rõ một điều rằng không ai có thể thay đổi quá
khứ nhưng chắc chắn sẽ làm chủ được tương lai.
Dù
thành công ở xứ người, tình yêu quê hương trong lòng người Việt bao giờ
cũng thể hiện rất rõ nét và sâu đậm. Những ngày mới ra đi nhớ quê hương
là chuyện đã đành, nhưng càng đi xa, càng sống lâu trong êm ấm càng
thấy thương những người còn chịu đựng gian nan. Mỗi dịp Tết, hàng trăm
ngàn đồng hương về thăm gia đình, cha mẹ, bà con.
Tuy
nhiên, nếu chỉ nhìn vào việc bà con về thăm nhà hay gởi tiền về cho
thân nhân mà gọi đó là “đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước” hay
chấp nhận chế độ chính trị tại Việt Nam thì quả thật là những đánh giá
hời hợt. Bầy cá hồi nhớ đường về sông cũ và những chiếc lá thường rơi về
cội. Dòng sông và nguồn cội của của người Việt là gia đình cha mẹ, mồ
mả tổ tiên, thân bằng quyến thuộc chứ không phải chế độ đang cai trị
đồng bào họ.
Người
Do Thái có khẩu hiệu “Người Do Thái mua hàng Do Thái” để khuyến khích
sản xuất cho nước họ, nhưng tôi tin không bao nhiêu người Việt đi chợ ở
Mỹ có được tinh thần đó. Chẳng những thế, cái gì có bàn tay CSVN dính
vào là đại đa số người Việt hải ngoại không ưa.
Thật
đáng đau buồn cho một dân tộc với hơn bốn ngàn năm văn hiến, đã giữ
được nền văn hóa riêng sau một ngàn năm Bắc thuộc, đã giành được quyền
tự chủ sau gần trăm năm trong bàn tay sắt của thực dân nhưng lại không
vượt qua được sự lạc hậu chậm tiến của chính mình. Sức cản chính trên
con đường phát triển Việt Nam về mọi lãnh vực cho đến nay vẫn là cơ chế
chính trị độc tài lạc hậu và tư duy hẹp hòi thiển cận của giới cầm quyền
Cộng sản Việt Nam.
Giới
cầm quyền CS đã đặt quyền lợi đảng lên trên quyền lợi dân tộc. Với họ,
độc quyền cai trị là ưu tiên tối thượng, và tất cả chính sách, dù đổi
mới kinh tế hay cải cách văn hóa xã hội, đều nhằm phục vụ cho quyền cai
trị hay ít ra không đi ngược với quyền lợi của đảng. Họ thà để cho đất
nước lạc hậu hay tiến chậm còn hơn thực hiện các cải cách chính trị căn
bản có thể đe dọa quyền cai trị.
Đảng
chăn dân như chăn một bày cừu, cho ăn tạm đủ no, cho uống bớt khát,
nhưng đàn cừu tội nghiệp kia 42 năm qua vẫn chưa thấy một thảo nguyên
xanh tươi hay một dòng suối mát. Sống như thế không phải là sống trong
“hòa bình” và “ổn định” như một vài người nhắm mắt bưng tai biện minh
cho đảng. Kết luận như thế là khinh thường nhận thức chính trị của người
dân Việt Nam.
Người
dân trong nước không có điều kiện thực thi nhân quyền và dân chủ chứ
không phải họ không hiểu thế nào là nhân quyền và dân chủ.
Không
phải đợi đọc xong Jean-Jacques Rousseau, Alexis Tocqueville, John
Locke, John Stuart Mill mới hiểu rằng con người có quyền phát biểu những
gì họ nghĩ, có quyền sống nơi họ chọn lựa, có quyền bầu ra người đại
diện cho mình trong chính phủ và quốc hội.
Nhân
quyền là quyền bẩm sinh của con người chứ không phải do ai ban phát.
Việc cho rằng người dân trong nước đang “yên vui hưởng phúc thái bình”
là lặp lại giọng điệu tuyên truyền của ba đời họ Kim ở Bắc Hàn.
Một
dân tộc bốn ngàn năm không ngừng tranh đấu nhưng cho đến hôm nay, ngoại
trừ một thời gian ngắn ở miền Nam, vẫn chưa có được những quyền tự do
chính trị căn bản mà các bộ lạc ở Ghana, Congo đang có.
Đó là nói về nhận thức, còn trong thực tế thì sao?
Sau
42 năm qua nhân dân Việt Nam có thật sự “yên vui hưởng phúc thái bình”
không? Đánh tư sản mại bản chưa xong là cải tạo công thương nghiệp, kinh
tế mới, trại tập trung, chiến tranh Kampuchia 1979, chiến tranh với
Trung Quốc lần thứ nhất 1979, nạn đói từ 1976 đến 1981, đụng độ với
Trung Quốc lần nữa và mất một phần lãnh thổ phía Bắc trong trận Lão Sơn
1984, bị hải quân Trung Quốc đánh bại tại Trường Sa 1988.
Có
một thời cây kim đồng hồ tại Việt Nam như đứng lại, dân tộc Việt như
một đàn chim bay tán loạn bốn phương trời. Và khi nội lực tiêu tan, khả
năng kiệt quệ, cố mở mắt nhìn ra bên ngoài thì than ôi nhân loại đã bỏ
xa mình hàng thế kỷ.
Giang
sơn gấm vóc nhuộm bằng mồ hôi nước mắt của tổ tiên, từ biên giới phía
Bắc đến các hải đảo thân yêu, đang từng mảnh rơi vào tay Trung Cộng.
Sở
dĩ đến hôm nay Việt Nam còn giữ được vài đảo trong quần đảo Trường Sa
bởi vì cuộc tranh chấp chủ quyền của quần đảo liên quan đến nhiều nước,
nếu đó chỉ là cuộc tranh chấp giữa Trung Cộng và Việt Nam thôi thì
Trường Sa đã mất lâu rồi. Làm người Việt Nam mà không biết cái nhục yếu
hèn, không lo cái họa mất nước, mà còn gọi đó là “thái bình” và “ổn
định” sao?
Với
chủ trương bảo vệ quyền cai trị bằng mọi giá nên mặc dù ngoài miệng hô
hào hòa giải để cùng nhau xây dựng đất nước, trong mắt của giới cầm
quyền đảng, khối người Việt nước ngoài vẫn là những kẻ đáng nghi ngờ,
vẫn là lực lượng phản động đang chờ cơ hội lật đổ quyền cai trị của
đảng.
Cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để, vì thế, là một tiến
trình không thể nào tránh khỏi tại Việt Nam. Nỗ lực của những người Việt
yêu nước, dù trong hay ngoài nước, dù tạm thời còn trong đảng hay đang
trực diện đấu tranh chống đảng, không phải là ngăn cản hay đẩy lùi tiến
trình đó, nhưng nên chung lưng góp sức với nhau để cách mạng được diễn
ra trong hòa bình, thuận lợi và ít lãng phí tài nguyên dân tộc.
Việt
Nam hơn bao giờ hết đang cần nhiều Phù Đổng vươn vai cứu nước, nhưng để
trở thành Phù Đổng, các thế hệ Việt Nam phải can đảm bước xuống khỏi
chiếc nôi đang ru ngủ họ và nhận ra đâu là chướng ngại trên con đường
phục hưng và phát triển Việt Nam. Giặc Ân ngày nay không ở đâu xa mà
đang đứng trước mặt và không ai khác hơn chính là giới cầm quyền CS đang
cai trị đất nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét