Tranh biếm họa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ của tờ Hoàn cầu Thời
báo
Có còn hơn không. Như lời an ủi cuối cùng vào buổi hoàng hôn
nhiệm kỳ và chợ chiều chính thể.
4 tháng sau khi Hiệp định TPP hầu như tan vỡ, giới quan chức
Việt Nam vẫn cố tự an ủi rằng “chưa có vấn đề gì lớn”. Sau biểu tả “triển vọng
phát triển còn tốt lắm” của Tổng bí thư Trọng, Thứ trưởng Bộ Công Thương kiêm Tổng
Thư ký Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế Đỗ Thắng Hải làm tiếp
việc liệt kê: “Xét cả về cấp độ phạm vi và quy mô hội nhập, TPP là một hiệp định
thương mại tự do (FTA) quan trọng nhưng không phải là duy nhất. Ngoài TPP, Việt
Nam còn có 10 FTA khác đã ký và đã có hiệu lực, 4 FTA đang đàm phán và 1 FTA đã
kết thúc đàm phán nhưng chưa ký kết. Các FTA này bao gồm hầu như tất cả các đối
tác thương mại chính của Việt Nam (như ASEAN, EU, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc,
Hàn Quốc, Australia…).
Tức nếu không có TPP, Việt Nam vẫn còn đến 15 FTA khác để hưởng
lợi!
Có thật như vậy không?
Lắm mối tối nằm không
Những thông tin thương mại song phương trong thời gian gần
đây vẫn phác họa một bức tranh hầu như chưa có gì sáng sủa. Ngay cả FTA với Hàn
Quốc mà trong quá trình đàm phán đã khiến giới quan chức Việt phải “mất ngủ” vì
thương thảo cả chuyện nhập khẩu… tỏi và ớt, ký xong mới thấy hình như hàng của
Hàn nhập vào Việt Nam nhiều hơn và hiệu quả hơn là hàng Việt xuất sang Hàn.
Còn Hiệp định thương mại tự do EU - Việt Nam (EVFTA) - thị
trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau Hoa Kỳ và luôn giúp Việt Nam xuất
siêu đến 20 tỷ USD hàng năm chứ không phải thường nhập siêu đến hơn 50 tỷ USD mỗi
năm (cả chính ngạch lẫn tiểu ngạch) như thương mại song phương giữa Việt Nam với
Trung Quốc - thì sao?
Vẫn mịt mờ chân mây. Đã một năm một quý tính từ thời điểm
tháng 12/2015 khi EVFTA được ký kết chính thức, mọi chuyện vẫn giậm chân tại chỗ
mà chưa có động tác triển khai nào tiếp theo. Kinh tế Việt Nam cũng bởi thế vẫn
chưa có gì được coi là “hưởng lợi” từ EVFTA.
Không chỉ chậm triển khai bởi những nguyên nhân kỹ thuật,
EVFTA còn đặt cho giới chóp bu Việt Nam một câu hỏi mới toanh: nhân quyền.
Nếu một năm trước, vai trò của EU trong đàm phán thương mại
và đối thoại nhân quyền gắn với thương mại với Việt Nam vẫn còn tương đối mờ nhạt
trước vị trí đương nhiên của người Mỹ, thì kể từ giữa năm 2016, khi bắt đầu một
cuộc “chuyển giao” về vai trò đối thoại và đàm phán nhân quyền đối với Việt Nam
từ Mỹ sang EU, vai trò của EU và nghị viện khối này đã dần mạnh lên.
Bất chấp việc Việt Nam liên tục cử các phái đoàn đi châu Âu
để “vận động”, EVFTA chỉ có thể được Nghị viện châu Âu thông qua một khi Việt
Nam phải thỏa mãn đòi hỏi về cải thiện nhân quyền. Mà phải cải thiện một cách cụ
thể chứ không thể “hứa lèo” như quá nhiều lần trước đây để sau đó Hà Nội vẫn tiếp
tục đàn áp, đàn áp và đàn áp.
Còn FTA với Trung Quốc thì khỏi nói, vì mỗi năm Việt Nam lại
phải nhập siêu từ Trung Quốc đến 37 tỷ USD theo đường chính ngạch, chưa kể khoảng
20 tỷ USD nhập siêu theo đường tiểu ngạch.
Thực trạng tương quan về thương mại song phương với các quốc
gia như trên chính là một kiểu lạm phát FTA mà dẫn đến cảnh trạng “lắm mối tối
nằm không”, rất tương đồng với cơ chế lạm phát đối tác chiến lược cũng của chủ
thể Việt Nam.
Quơ quào đối tác chiến lược
Từ năm 2001 đến nay, Việt Nam đã tuyên bố thiết lập quan hệ
đối tác chiến lược với Liên bang Nga (2001), Nhật Bản (2006), Ấn Độ (2007),
Trung Quốc (2008), Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Australia (2009), Vương quốc Anh
(2010), Đức (2011) và Ý (2013). Tổng cộng có đến 10 mối quan hệ đối tác chiến
lược được thành lập. Trong số này, một số mối quan hệ như với Trung Quốc và LB
Nga đã được nâng lên tầm “đối tác chiến lược toàn diện”.
Nếu nhìn vào danh sách các đối tác chiến lược mà Việt Nam đã
thiết lập, có thể thấy có một số quốc gia mà tầm ảnh hưởng của họ đối với an
ninh, thịnh vượng và vị thế quốc tế của Việt Nam chưa đạt đến mức quan trọng,
chưa nói đến mức “quan trọng chiến lược”. Tiêu biểu trong số đó có thể kể đến
Tây Ban Nha. Tây Ban Nha hầu như không có ảnh hưởng gì tới an ninh, quốc phòng
của Việt Nam, vị thế quốc tế của Tây Ban Nha cũng hạn chế hơn rất nhiều so với
nhiều quốc gia khác và ít có khả năng giúp đỡ Việt Nam nâng cao vị thế của
mình.
Chính động cơ thỏa hiệp vô cùng tận về bạn bè rút cục sẽ chẳng
mang lại một người bạn thực sự nào.
Vài năm trước khi xảy ra làn sóng đối tác chiến lược của Việt
Nam với các nước, đã có nhiều ý kiến nêu rằng quá nhiều đối tác chiến lược thì
khi xảy ra tình trạng khó khăn với Việt Nam, như bị gây áp lực quân sự từ Trung
Quốc, thì các đối tác chiến lược khác sẽ không có trách nhiệm gì cả, họ xem đó
là vấn đề riêng tư của Việt Nam, tức sẽ không có một nguồn lực tập trung để giải
quyết vấn đề Việt Nam khi mà nguồn lực đó bị dàn trải quá nhiều.
Quả thực, khi có quá nhiều các mối quan hệ đối tác chiến lược
thì bản thân các mối quan hệ đó không còn thực sự là “chiến lược” nữa. Việc đưa
ra khái niệm “đối tác chiến lược” như là một từ khóa quan trọng trong tư duy đối
ngoại Việt Nam hiện nay cũng vì vậy chẳng còn ý nghĩa gì.
Còn khi Việt Nam đánh đồng các mối quan hệ thực sự là “chiến
lược” với các mối quan hệ dưới chuẩn, sẽ khiến các quốc gia thực sự quan trọng
đối với Việt Nam không còn mặn mà với ý tưởng trở thành đối tác chiến lược của
Việt Nam, hoặc nếu đã trở thành thì sẽ giảm hứng thú trong việc duy trì sự phát
triển thường xuyên mối quan hệ đó bởi họ nhận ra rằng Việt Nam không thực sự
coi trọng họ như họ từng nghĩ.
Vào năm 2014 khi đối thoại về việc nới lỏng cấm vận võ khí
sát thương cho Việt Nam, Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, Đô đốc
Samuel Locklear, đã như mỉa mai: “Việc này phần lớn phụ thuộc vào Việt Nam muốn
gì vì họ có nhiều đối tác, nhiều láng giềng, cũng như nhiều mối quan ngại về an
ninh”.
Cho tới lúc này, có thể không quá hồ đồ để sơ kết rằng Nhà
nước Việt Nam còn chưa thật sự hiểu họ muốn gì trong phong trào thiết lập quan
hệ đối tác chiến lược. Đặc biệt nhất, đối tác chiến lược toàn diện tưởng như lớn
lao và bền vững nhất với Trung Quốc lại đã bị đáp trả bằng hình ảnh Bắc thuộc
Biển Đông của giàn khoan HD 981, trong lúc hầu hết các “đối tác chiến lược”
khác đều thờ ơ hoặc quay lưng với Hà Nội khi Việt Nam bị uy hiếp. Trong vụ HD
981, thậm chí trên kênh CNN toàn là những người đại diện ngoại giao của Trung
Quốc phát biểu chứ không phải là đại diện ngoại giao của Việt Nam.
Kết quả hơn 15 năm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”
cùng hàng chục đối tác chiến lược của chính thể này đã chỉ được đúc rút thành lời
giễu cợt không thèm che đậy của chính giới quốc tế.
“Nhai lại” TIFA
Và kết quả hơn 15 năm của cơ chế “đa phương hóa thương mại”
rút cục đã biến giao thương đối ngoại của Việt Nam thành một cái lẩu thập cẩm.
Không chỉ “lắm mối tối nằm không”, mà bi kịch còn đang đến rất
gần - cả chính trị, quân sự lẫn thương mại.
Sau những gì “triển vọng phát triển còn tốt lắm” của Tổng bí
thư Trọng cùng 15 FTA của Bộ Công thương, tuần cuối tháng Ba năm 2017 đã chứng
kiến chính thể Việt Nam phải chính thức quay lại Hiệp định Khung về Thương mại
và Đầu tư (TIFA), sau khi đã “quên” hiệp định này của người Mỹ 6 năm về trước.
Giờ đây khi đã mất TPP, chính thể Việt Nam đang buộc phải
quay lại điểm xuất phát TIFA. Lại mài đũng quần trong phòng đàm phán, hệt như
hình ảnh đã từng với TPP từ năm 2010.
Có còn hơn không. Như lời an ủi cuối cùng vào buổi hoàng hôn
nhiệm kỳ và chợ chiều chính thể.
***
Phạm Chí Dũng là nhà báo độc lập, tiến sĩ kinh tế sống và
làm việc tại Sài Gòn, Việt Nam. Trước năm 2013, đã có thời gian 30 năm làm việc
trong quân đội, chính quyền và khối đảng. Do viết bài chống tham nhũng, từng bị
công an bắt vào năm 2012. Năm 2013, tuyên bố từ bỏ đảng Cộng sản Việt Nam. Năm
2014, cùng các cộng sự thành lập Hội nhà báo độc lập Việt Nam và giữ cương vị
chủ tịch của tổ chức này. Cũng trong năm 2014, được Tổ chức phóng viên không
biên giới vinh danh 'Anh hùng thông tin'.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét