Thứ Tư, 29 tháng 11, 2017

Nhật – Ấn và giấc mơ Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương





Nếu Mỹ mong muốn một “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở”, như Ngoại trưởng Rex Tillerson đã hối thúc và Tổng thống Mỹ Donald Trump và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã thảo luận trong cuộc gặp gần đây giữa họ ở Tokyo, thì sẽ không có 2 cường quốc nào quan trọng bằng Ấn Độ và Nhật Bản.

Hai nước này nằm trong số các quốc gia quan ngại nhất về an ninh trong khu vực và cũng ngày càng sẵn sàng cộng tác với nhau về vấn đề này. Mối quan hệ giữa 2 quốc gia – vốn xa xôi về mặt lịch sử và chiến lược – đã phát triển ngày càng mạnh mẽ dưới sự quản lý của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, với việc thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ cấp cao (Abe đã tới New Delhi để thăm Modi vào tháng 10/2017) kết hợp với những sự trao đổi ngày càng thường xuyên và sâu sắc hơn ở các cấp độ ngoại giao, quốc phòng và kinh doanh.


Lý do khiến 2 quốc gia này đến với nhau là nỗi lo âu chiến lược chung về sự trỗi dậy của Trung Quốc, đặc biệt là các tham vọng chính sách đối ngoại của nước này ở châu Á. Đối với 2 nước này, sự quyết đoán trên biển của Bắc Kinh ở các biển Hoa Đông và Biển Đông cũng như ở khu vực Ấn Độ Dương, và việc nước này thúc đẩy mở rộng tầm ảnh hưởng địa chính trị của mình vượt ra ngoài khu vực Đông Á thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) và Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) là đặc biệt đáng báo động. Để đáp lại, Ấn Độ và Nhật Bản có cùng cảm giác về mục đích của việc thúc đẩy trật tự hiện tại trong khu vực, vốn được dựa trên các thể chế minh bạch, sự quản trị tốt và luật pháp quốc tế, và làm lợi cho 2 nước này bằng việc đảm bảo các chuỗi cung ứng an toàn và quyền tiếp cận công bằng tới nguồn lực.

Ngoài các mối quan ngại chung của 2 quốc gia về sự trỗi dậy của Trung Quốc, còn có mối lo âu rằng uy tín của Mỹ đang suy yếu. Bất chấp các nỗ lực “tái cân bằng” sang châu Á-Thái Bình Dương của Chính quyền Barack Obama, Washington đã không thể làm dịu đi các mối quan ngại của khu vực rằng ảnh hưởng của nước này đang giảm sút. Tình cảm như vậy đã tồn tại từ trước khi Trump đắc cử tổng thống, nhưng đã được khuếch đại bởi chính sách đối ngoại “Nước Mỹ trước tiên” của Nhà Trắng dưới thời Trump, chính sách dựa trên chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa giao dịch thay vì một cách tiếp cận toàn diện hơn tới khu vực. Việc rút khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) – mà phần lớn đã được 11 nước còn lại trong thỏa thuận nhất trí về mặt nguyên tắc gần đây – đã làm gia tăng hơn nữa sự không chắc chắn trong số các đối tác và đồng minh của Mỹ.

Mặc dù Mỹ vẫn can dự vào khu vực thông qua một loạt khuôn khổ song phương và 3 bên, nhưng New Delhi và Tokyo nhận thấy tầm quan trọng của việc xây dựng các mối quan hệ ngoại giao mang tính bổ trợ mà phần lớn liên kết với Washington nhưng không do Mỹ dẫn dắt. Hai nước này đã thiết lập đối thoại 3 bên Nhật Bản-Ấn Độ-Úc, vốn tồn tại một cách độc lập với các khuôn khổ bao gồm cả Mỹ. Cơ chế này hoạt động ở cấp bộ máy chính quyền, cho phép Canberra, New Delhi và Tokyo xem xét các quan điểm chung về an ninh khu vực và việc hiệp lực trong các vấn đề như xây dựng năng lực và hợp tác trong giúp đỡ nhân đạo và cứu trợ thảm họa. Và vào tháng 9, trong một tuyên bố chung, 2 bên đã nhất trí liên kết 2 chiến lược khu vực của họ: chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở của Nhật Bản và chính sách Hành động hướng Đông của Ấn Độ.

Cách tiếp cận của Tokyo tập trung vào việc liên kết tư thế an ninh và quốc phòng đang tiến triển của họ, mà họ gọi là “sự đóng góp chủ động vào hòa bình”, với tầm nhìn rộng mở hơn về các chuỗi cung ứng then chốt của khu vực, vốn trải dài từ Đông Phi tới Hawaii. Việc Nhật Bản tiếp nhận “sự hội tụ của 2 vùng biển” – như được ông Abe vạch ra lần đầu tiên cách đây hơn 1 thập kỷ – bổ sung cho cách tiếp cận khu vực của Ấn Độ, được gọi là Hành động hướng Đông. Chính sách này là một kiểu tiến triển từ chính sách cũ Hướng Đông của Ấn Độ và nhắm tới việc củng cố chiến lược của Ấn Độ ở Đông Á thông qua các liên kết mạnh mẽ hơn với các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (đặc biệt là Myanmar, Singapore, Việt Nam) và đương nhiên là với Nhật Bản. Sự trỗi dậy nhanh chóng và sức mạnh đang gia tăng của Trung Quốc trong khu vực đã tạo ra mối quan ngại ở New Delhi và thúc đẩy sự cần thiết phải có một cách tiếp cận khu vực mạnh mẽ hơn.

Tương tự, khía cạnh an ninh và quốc phòng cũng có nhiều động lực. Các lực lượng phòng vệ Nhật Bản tiếp tục tăng cường hợp tác với quân đội Ấn Độ, đặc biệt là trong các vấn đề an ninh biển. Tokyo và New Delhi đã ký kết các thỏa thuận về việc chia sẻ thông tin quân sự và trao đổi công nghệ phòng thủ. Cũng đã có tiến bộ trong việc hoàn tất các kế hoạch bị trì hoãn từ lâu của Ấn Độ mua máy bay đổ bộ US-2 của Nhật Bản, một động thái mà sẽ đặt nền tảng cho sự hợp tác quốc phòng hơn nữa trong những năm tới, nhưng đã bị trì hoãn trong nhiều năm do mong muốn của Ấn Độ hạ thấp chi phí cho mỗi đơn vị cũng như các câu hỏi về tính thích hợp của việc chuyển giao công nghệ phòng thủ. Dường như thỏa thuận này có thể sớm được thông qua – như được thể hiện qua sự lạc quan ngày càng gia tăng về vấn đề này trong các cuộc gặp gỡ cấp cao kế tiếp nhau giữa Abe và Modi – và sẽ thể hiện một bước đi then chốt tiếp theo trong mối quan hệ chiến lược giữa Ấn Độ và Nhật Bản.

Ở một chừng mực nào đó, tình hữu nghị giữa Nhật Bản và Ấn Độ cũng đang củng cố các mối quan hệ của họ với Mỹ. Năm 2016, New Delhi và Washington đã ký kết một bản Thỏa thuận ghi nhớ trao đổi về logistics được mong đợi từ lâu, cho phép mỗi nước sử dụng các cơ sở của nước kia cho việc tiếp nhiên liệu, sửa chữa và các vấn đề hậu cần khác. Trong khi đó, Tokyo đã phối hợp ăn ý các nỗ lực cải thiện phòng thủ của mình cùng với New Delhi với những sự tăng cường trong quan hệ Mỹ-Ấn. Và cách đây vài tháng, Lực lượng phòng vệ trên biển Nhật Bản đã hoạt động tác chiến cùng với hải quân Mỹ và Ấn Độ trong cuộc tập trận hải quân Malabar thường niên. Sau khi tham gia với tư cách là một thành viên đặc biệt trong nhiều năm, năm 2015 Nhật Bản đã trở thành thành viên thường trực trong các cuộc tập trận này. Cuộc tập trận Malabar năm nay ở vịnh Bengal đã tập hợp hơn 20 tàu, trong đó có tàu hải quân lớn nhất của Nhật Bản là chiếc JS Izumo, và gần 100 máy bay từ cả 3 nước. Quả thực, Malabar đã trở thành chất xúc tác cho hợp tác an ninh ngày càng tăng giữa Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản, và được bổ trợ bởi một loạt cuộc gặp ngoại giao cấp cao, bao gồm một cuộc họp giữa các bộ trưởng ngoại giao của họ vào tháng 9 ở New York bên lề Đại hội đồng Liên hợp quốc.

Đổi lại, hợp tác an ninh 3 bên đã dẫn tới sự hội tụ ngày càng tăng giữa Washington và New Delhi về các vấn đề an ninh, bao gồm cả vấn đề về Afghanistan lẫn an ninh biển. Tháng 9/2017, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis đã tới thăm New Delhi và nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ đối tác 3 bên trong khu vực, với Nhật Bản là đối tác quan trọng nhất. Thật vậy, bất chấp sự gắn bó lâu dài với phong trào không liên kết, Ấn Độ dưới thời Modi ngày càng được khuyến khích đảm nhận một vai trò mạnh mẽ hơn ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Về mặt ngoại giao, New Delhi không biện hộ cho những nghi ngại của họ đối với BRI của Trung Quốc và từ chối cử bất kỳ đại diện nào tới lễ khai mạc diễn đàn BRI lớn của Bắc Kinh hồi đầu năm nay. Về mặt an ninh, New Delhi đã tăng cường quan hệ với Mỹ và Nhật Bản và cũng từ chối rút quân trong một cuộc tranh chấp căng thẳng với Trung Quốc vào tháng 9 vừa qua về vùng lãnh thổ bị tranh chấp ở nước Bhutan lân cận. Hơn nữa, New Delhi đã công khai phát đi tín hiệu cho thấy những quan ngại của mình về sự quyết đoán trên biển ngày càng tăng của Bắc Kinh bằng cách nhất trí khôi phục các cuộc hội đàm 4 bên với Úc, Nhật Bản và Mỹ sau 10 năm tạm dừng – một động thái mà Bắc Kinh chắc chắn sẽ coi là khiêu khích.

Vẫn còn nhiều không gian cho hợp tác lớn hơn nữa giữa New Delhi và Tokyo, đặc biệt trong khi cả hai vẫn còn thận trọng với Trung Quốc. New Delhi nhận thấy Tokyo là một đối tác tự nhiên, với các khả năng phòng thủ ngày càng tăng, đã phát triển và nuôi dưỡng nhiều mối quan hệ chủ chốt trong khu vực. Và Tokyo nhìn nhận New Delhi như là một nước tạo thế cân bằng địa chính trị quan trọng, bất chấp sự khác biệt nào đó trong tư duy chiến lược, đang ngày càng sẵn sàng tăng cường và đóng góp cho an ninh khu vực vượt ngoài cuộc xung đột khó giải quyết với Pakistan.

Mặc dù Ấn Độ và Nhật Bản chia sẻ các mối quan ngại chung, nhưng vẫn chưa rõ các chiến lược của họ sẽ hội tụ như thế nào trong thực tế. Từ góc độ an ninh biển, điều dễ hiểu là Nhật Bản chủ yếu vẫn lo ngại về các tuyến đường biển và kiềm chế hành vi hung hăng của Trung Quốc ở biển Hoa Đông và Biển Đông. Trong khi đó, Ấn Độ vẫn tập trung vào khu vực Ấn Độ Dương, nơi Trung Quốc đã mở rộng cơ sở hạ tầng và đầu tư vào Bangladesh, Maldives, Pakistan và Sri Lanka.

Nhưng những ưu tiên khu vực khác nhau này không nhất thiết phải là điểm gây tranh cãi. Quả thực, cả hai bên cần thừa nhận rằng lợi ích của họ trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở rộng đều bổ trợ lẫn nhau – 2 nước hợp tác trên nhiều vấn đề liên quan đến an ninh hàng hải mà không cần nhân đôi nỗ lực. Chẳng hạn, cả hai bên cần đều đặn chia sẻ các khả năng tác chiến của họ, ví dụ như trong việc phòng vệ và trang bị cho lực lượng bảo vệ bờ biển, và thông qua huấn luyện và các chiến lược xây dựng năng lực ở Nam Á và Đông Nam Á. Việc chia sẻ như vậy có thể được chính thức hoá cùng với các đối tác có chung tư tưởng khác, đặc biệt là Mỹ và Úc, và nằm trong khuôn khổ các cuộc tham vấn 4 bên được tổ chức trở lại.

Nhật Bản và Ấn Độ cũng phải hoàn tất các cuộc đàm phán về việc New Delhi mua máy bay US-2. Việc mua sắm này sẽ là một cột mốc quan trọng trong việc cải thiện mối quan hệ đối tác trong lĩnh vực quốc phòng, công nghiệp và mua sắm trong khi vẫn đem lại cho Ấn Độ khả năng tuần tra lãnh hải rộng lớn của mình, bao gồm quần đảo Andaman và Nicobar. Cuối cùng, Tokyo và New Delhi cần làm việc để mở rộng phạm vi hợp tác của 2 nước ngoài các vấn đề hàng hải bằng cách mở rộng các cuộc trao đổi và đối thoại về các vấn đề như chống khủng bố, an ninh mạng và bảo vệ cơ sở hạ tầng trọng yếu.

Hợp tác mạnh mẽ giữa Ấn Độ và Nhật Bản có tiềm năng thúc đẩy tính minh bạch, các tuyến đường biển mở và việc tuân thủ luật pháp quốc tế trong khu vực. Nhưng nếu họ thất bại, các quốc gia trong khu vực này chắc chắn sẽ thu hẹp các lợi ích quốc gia của họ và thu nhỏ các khối trong khu vực – một kịch bản có lợi cho cách tiếp cận của Bắc Kinh nhằm làm xói mòn việc tập hợp các nhóm “tiểu đa phương” mà họ coi là đối chọi với các lợi ích của họ.

*

Berkshire Miller là nhà nghiên cứu liên kết cấp cao Học viện Nghiên cứu các Vấn đề Quố tế Nhật Bản, Tokyo.


Nguồn: J. Berkshire Miller, “How Abe and Modi Can Save the Indo-Pacific“, Foreign Affairs, 15/11/2017.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét