Ông Trọng tiếp ông Tập tại Hà Nội.
Không ai chọn được láng giềng,
nhưng ai cũng có quyền chọn cách chơi với láng giềng của mình.
“Quan hệ hữu nghị” Toracanxi -
Hopantomola
Những ai hâm mộ Aziz Nesin, nhà
văn trào phúng nổi tiếng thế giới người Thổ Nhĩ Kỳ, hẳn đều biết đến câu chuyện
“Quan hệ hữu nghị” của ông. Nội dung câu chuyện là về mối quan hệ giữa
Toracanxi và Hopantomola, hai quốc gia láng giềng có mối thâm thù với nhau và
luôn trong tình trạng sẵn sàng chiến tranh.
Căm ghét và thù địch là cảm xúc
chi phối những gì mà thủ tướng Toracanxi và quốc vương Hopantomola cùng nội các
của họ dành cho nhau. Thủ tướng Phoxica thì chỉ ước ao làm sao tóm được “thằng
súc sinh khốn nạn” Madragan IV để “moi gan hắn ra”, còn vua Madragan IV thì thề
sẽ lột da kẻ thù ngay lập tức nếu cái “thằng Phoxica khốn kiếp” ấy rơi vào tay
ông.
Tuy nhiên, đó là thái độ mà cả
hai bên đều che dấu kỹ bên trong, và chỉ thoải mái bộc lộ giữa bốn bức tường của
phòng họp nội các tại thủ đô mỗi nước. Còn bên ngoài, bộ ngoại giao hai nước vẫn
dùng những mỹ từ cao đẹp nhất trên thế gian khi mô tả mối quan hệ của họ.
Hai bên đều tận dụng mọi cơ hội,
từ dịp sinh nhật đứa cháu nội quốc vương Hopantomola cho đến sự kiện con trai
út thủ tướng Toracanxi mọc răng, để trao cho nhau những thông điệp ngoại giao
thắm tình hữu nghị nhất có thể.
Tuy nhiên, cứ sau mỗi bức điện,
guồng máy chiến tranh của mỗi bên lại được nhấn thêm một bước.
Và cơn mưa những lời chúc tụng
qua lại đó chỉ chấm dứt vào đúng “điểm nút” của câu chuyện: lệnh tấn công kẻ
thù của quốc vương Hopantomola chưa kịp triển khai thì thủ tướng Phoxica đã
chơi bài “tiên thủ hạ vi cường”, cho quân đội Toracanxi khai hoả trước!
“Mối tình hữu nghị” Việt - Trung
Bề ngoài thì mối quan hệ giữa Việt
Nam và Trung Quốc cũng không khác “quan hệ hữu nghị” giữa hai quốc gia
Toracanxi và Hopantomola là mấy.
Trong khi hàng ngàn năm qua,
Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ dã tâm thôn tính dải đất phương Nam hình chữ S
thì hầu hết người Việt cũng coi quốc gia láng giềng phương Bắc “vừa to xác, vừa
xấu bụng” là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. (Không chỉ những lãnh tụ như Mao
Trạch Đông hay Tập Cận Bình mới mang cuồng vọng bá chủ thiên hạ, mà ngay cả đám
du khách Tàu lếch thếch đến Việt Nam cũng đã coi dải đất phương Nam này như là
phần lãnh thổ mở rộng của họ.)
Tuy nhiên, trên phương diện ngoại
giao thì mọi chuyện lại khác.
“Sắc thái chủ đạo” trong những
“thông điệp ngoại giao” mà Toracanxi và Hopantomola gửi cho nhau cũng được thể
hiện trong các bản tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc mỗi khi lãnh đạo
cấp cao bên này sang thăm bên kia. Quan trọng hơn, bên cạnh việc vạch ra phương
hướng cho mối quan hệ giữa hai nước, các bản tuyên bố chung Việt - Trung còn
nêu lên những nội dung hợp tác cụ thể, nhằm hiện thực hoá phương hướng quan hệ
đó.
Cả Toracanxi lẫn Hopantomola đều
coi các thông điệp ngoại giao của đối phương là vô giá trị, bởi không những hai
bên đều “đi guốc trong bụng” nhau, mà điều cốt yếu là nội các mỗi bên đều luôn
đồng lòng coi phía bên kia là kẻ thù của dân tộc mình.
Tương tự, Bắc Kinh chưa bao giờ
coi trọng những gì họ đã ký kết với Hà Nội, bởi cho dù trong nội bộ họ có thể đấu
đá tranh giành quyền lực một cách quyết liệt, thậm chí một mất một còn, song một
khi vấn đề Việt Nam được nêu ra thì giữa họ hầu như không có sự khác biệt nào.
Lý do thật đơn giản: họ cùng chia sẻ dòng máu “họ Bành” vốn đã chảy trong huyết
quản Hán tộc từ ngàn xưa đến nay.
Tuy nhiên, về phần mình, Hà Nội lại
không được như vậy. Trong khi hầu hết người Việt đều nhìn về phương Bắc với ánh
mắt đầy ngờ vực, cảnh giác thì trong ban lãnh đạo CSVN lại luôn có những kẻ hoặc
đã bị Trung Nam Hải kiểm soát, thao túng, hoặc đã bị đồng Yuan làm cho mờ mắt.
Vì thế, Hà Nội luôn bị chia rẽ trong chính sách đối phó với Trung Quốc, kẻ luôn
chực chờ cơ hội để nuốt chửng không chỉ toàn bộ Biển Đông mà cả Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, các bản tuyên
bố chung Việt - Trung không những hoàn toàn không phải là mớ giấy lộn, mà ngược
lại, còn tiềm ẩn những hiểm hoạ khôn lường với vận mệnh dân tộc. Nó vốn dĩ đã
nguy hiểm nếu người ký kết bị Bắc Kinh dắt mũi thì lại càng nguy hiểm nếu người
thực hiện bị đối phương khống chế, thao túng.
Và tình thế Việt Nam hiện nay
Kể từ khi Nguyễn Văn Linh đưa Việt
Nam vào quỹ đạo Đại Hán với câu phát ngôn bất hủ “Dù bành trướng thế nào Trung
Quốc cũng là một nước xã hội chủ nghĩa”, các đời Tổng Bí thư của Đảng CSVN đều
hoặc tự nguyện làm tay sai cho Bắc Kinh (Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười) hoặc bị
Trung Nam Hải khống chế, thao túng rồi biến thành tay sai theo cách này hay
cách khác (Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng).
Trong hệ thống chính trị Việt
Nam, mặc dù Tổng Bí thư là nhà lãnh đạo tối cao, nhưng quyền hành pháp lại gần
như nằm trọn trong tay Thủ tướng Chính phủ. Nghĩa là, tuy trong mối quan hệ với
Trung Quốc, Tổng Bí thư là người có tiếng nói quyết định về đường lối, phương
hướng, song việc triển khai đường lối, phương hướng đó, cũng như việc hiện thực
hoá những thoả thuận hợp tác cụ thể trong các bản tuyên bố chung giữa lãnh đạo
hai nước, lại chịu ảnh hưởng rất lớn, thậm chí trong nhiều trường hợp là quyết
định, bởi lập trường của người đứng đầu bộ máy hành pháp.
Nếu các bản tuyên bố chung Việt -
Trung xưa nay luôn được Hà Nội thực hiện đúng thì có thể nói Việt Nam đã trở
thành “một bộ phận không thể chối cãi của Trung Quốc” từ lâu. Tuy nhiên trên thực
tế, điều đó đã không xẩy ra, mà lý do chủ yếu là: ngoài một số người trong ban
lãnh đạo Việt Nam (Bộ Chính trị) không bị Bắc Kinh dắt mũi, trong các đời thủ
tướng kể từ sau Hội nghị Thành Đô đến nay (Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn
Dũng và Nguyễn Xuân Phúc – ít nhất là tới thời điểm này) thì chỉ duy nhất Nguyễn
Tấn Dũng là bị Trung Nam Hải khống chế, thao túng. (Giai đoạn Nguyễn Tấn Dũng
làm Thủ tướng cũng là giai đoạn mà Việt Nam bị “Hán hoá” nặng nề nhất, đặc biệt
là trên phương diện kinh tế.)
Điều này giải thích tại sao mặc
dù trong bản Tuyên bố chung Việt - Trung ngày 3/12/2001 nhân chuyến thăm Trung
Quốc của Nông Đức Mạnh đã nêu rõ là hai bên “nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các
doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bauxite nhôm Đắc Nông”, nhưng cũng phải
đến khi “đồng chí X” lên thay Phan Văn Khải thì người đứng đầu chính phủ Việt
Nam mới quả quyết rằng việc khai thác bauxite tại Tây Nguyên là “chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước”, trong khi Nông Đức Mạnh vẫn là Tổng Bí thư.
Sau khi Chủ tịch nước Trần Đại
Quang (thủ lĩnh nhóm chống Tàu trong bộ máy kể từ giữa năm 2013 đến nay) bị thất
thế vì dính líu đến vụ Trịnh Xuân Thanh đào thoát khỏi Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc đã rộng đường hơn trong cuộc chạy đua đến ngôi vị số 1, song đồng thời
ông cũng chông chênh hơn trong cuộc chiến chống lại “nhóm lợi ích Tàu” trong bộ
máy do cặp bài trùng Hoàng Trung Hải - Nguyễn Phú Trọng cầm đầu, với sự hậu thuẫn
hết mình của Bắc Kinh.
Hy vọng là người đứng đầu chính
phủ Việt Nam hiện nay sẽ không “sập bẫy” vì tham vọng quyền lực của mình, để rồi
chưa kịp hiện thực hoá giấc mơ Tổng Bí thư thì đã trở thành con rối trong tay
các ông chủ Trung Nam Hải, những kẻ vốn là “bậc thầy” thiên hạ về mưu ma chước
quỷ. Nếu điều đó xẩy ra, đất nước sẽ lại đứng trước những hiểm hoạ khôn lường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét