Phạm Công Luận
Một buổi chiều giữa năm 1982, trời mưa tháng bảy dầm dề. Vân ngồi trong nhà nhìn lên mái ngói của dãy nhà đối diện. Nước mưa chảy lăn tăn trên mái ngói cũ đã nhuốm màu đen sạm của rêu phong, nắng gió hằng bao nhiêu năm nay. A Hỏi ngồi bên cạnh, cắm cúi viết chính tả trên cuốn tập Vân đưa cho. Tuy lớn hơn Vân một tuổi, A Hỏi chỉ mới học chữ đây thôi. A Hỏi bảo: “Lâu nay không biết viết, biết đọc tiếng Việt. Giờ học được thấy vui quá!”. A Hỏi viết mải miết cho đến khi có tiếng mẹ của A Hỏi kêu to bên nhà: “A Hỏi, mày ở đâu?”. A Hỏi ngưng viết, băng qua màn mưa chạy ngay về nhà. Vân nhìn theo, thấy thương đứa bạn người Hoa nhà bán hủ tíu mì hoành thánh xá xíu quá.
Đó là lúc mới về sống ở hẻm Tô Châu.
Hẻm Tô Châu ở số 47 đường Trần Hưng Đạo B. Đường Trần Hưng Đạo khá dài, nối từ cực Tây Sài Gòn đi dần về phía Đông. Trần Hưng Đạo B, xưa là đường Đồng Khánh, ở quận 5.
Hẻm Tô Châu ở số 47 đường Trần Hưng Đạo B. Đường Trần Hưng Đạo khá dài, nối từ cực Tây Sài Gòn đi dần về phía Đông. Trần Hưng Đạo B, xưa là đường Đồng Khánh, ở quận 5.
Gia đình Vân về sống hẻm này năm 1981. Đây là nơi cư ngụ lâu đời của một cộng đồng người Hoa nhỏ gốc Quảng Đông. Năm đó, Vân mới 12 tuổi. Gia đình Vân về đây sống không ngại ngần vì trước đó, cả nhà sống ở đường Hàm Tử, cũng trong khu người Hoa và cảm thấy cộng đồng này khá dễ chịu. Nhà Vân số 23, nằm trong nhánh trái của con hẻm hình chữ T. Mới về, mấy bà con người Hoa xúm lại hỏi: “Tên gì, nghĩa là gì?”. Mẹ Vân trả lời: “Vân, nghĩa là đám mây!”. Họ bảo: “Vậy gọi là A Hoành!”. Hoành, tiếng Quảng Đông nghĩa là “đám mây”. Từ đó, Vân có tên riêng chỉ trong hẻm Tô Châu mới gọi: “A Hoành!”
Hẻm Tô Châu là hẻm cụt, không có lối thông. Nếu có ai hỏi: “Nhà ở đâu?”. Vân chỉ cần nói ở hẻm đối diện lò bánh mì Đồng Khánh thì ai cũng biết, vì bên kia đường là lò bánh mì chụm củi nổi tiếng một thời – lò bánh mì Đồng Khánh, lấy tên cũ của con đường. Hẻm có 31 căn, hình như vậy, có khoảng bảy nhà người Việt. Người Hoa ở đây ai cũng biết nói tiếng Việt và người Việt thì có thể nghe và nói bập bẹ tiếng Hoa. Nghe người Hoa nói với nhau riết, người Việt cũng hiểu dần, thấy không đến nỗi khó lắm. Thật ra, người Hoa không nói tiếng Hoa với người Việt, họ chỉ nói tiếng Hoa với nhau thôi, nhưng họ nói lớn tiếng, bình thường đã nói lớn, huống chi là lúc cãi nhau, cả xóm đều nghe. Đám nhỏ người Việt hiểu được tiếng Hoa càng dễ vì còn nhỏ, tiếp nhận ngôn ngữ mới rất tự nhiên.
Ông Tô Châu là chủ của toàn bộ nhà hẻm này, chỉ nghe kể lại vậy chứ đám trẻ lớn lên không ai biết mặt mũi ông ra sao. Gia đình ông đã rời đi từ lúc chiến tranh đang diễn ra mấy năm trước 1975, nghe đâu cả nhà về Đài Loan. Ông để lại cả hai dãy phố người ta đang thuê của ông, và để lại cái tên Tô Châu trên bảng hiệu đầu hẻm. Toàn bộ nhà trong hẻm đều xây theo một kiểu nhà ống, ngang 4 mét, dài 20 mét, cửa sắt kéo, cửa sổ lá sách bên trong có chấn song.
Cuộc sống tuy ổn định, nhưng người cố cựu trong hẻm đôi khi nhắc nhớ một món nợ âm ỉ. Đó là tiền phải trả cho chủ nhà bấy lâu nay vì dù sao, họ vẫn là người đi thuê nhà. Họ bảo nhau: “Ông chủ đã đi từ đời tám hoánh. Bây giờ muốn trả tiền thuê nhà cũng chẳng biết trả cho ai. Thôi thì cứ ở vậy cho rồi!”. Họ thầm biết ơn ông, và nhắc như một huyền thoại ngày càng lùi xa trong ký ức.
Vì là nhà cho người nghèo thuê, ít có căn nào chỉ có một gia đình ở. Căn nào cũng ở ghép ít nhất là hai gia đình. Có căn chỉ có một bà xẩm ở ghép, sống một mình nên riêng một phòng. Người trong nhà nương tựa lẫn nhau, ở chung nhưng phòng không có cửa, che bằng tấm vải nhỏ, chẳng ai trộm cắp gì của ai. Tấm vải che biến thành cửa phòng, lâu ngày đen thui và nặng mùi. Người trong nhà ngồi buồn buồn nhìn tấm vải, nhìn hoài cũng không định được lúc ban đầu nó được in hoa gì hay có màu gì, cũng như không biết nó ở đó tự khi nào.
Ở chung, xài bếp chung, sân chung nhưng người Hoa chia sẻ tiện ích rất khéo, không ai phiền ai. Họ chỉ cãi nhau đôi lúc vì sốt ruột đám con nít đánh nhau, con mình bị chảy máu lỗ đầu. Mới cãi cọ hôm qua, hôm nay thấy đám trẻ chơi bên nhau, người lớn chẳng giận nhau lâu chi cho mệt. Hầu như nhà nào cũng phơi đồ trước nhà, dù mỗi nhà đều có khoảng giếng trời bên trong nhưng có lẽ đồ đạc nhiều nên nó bị chiếm chỗ. Con nít đi từ nhà này sang nhà kia chơi phải chui qua những sợi dây phơi đồ rỉ nước từ quần áo vừa giặt, riết rồi cũng quen. Sau này đi xa lại nhớ những chuyện như vậy.
Nhà đông người, tính người Hoa lại thích cất giữ đồ cũ nên nhà nào cũng bề bộn phát ớn. Năm tháng chất chồng, đồ đạc càng chồng chất. Họ không bỏ thứ gì cả, mua cái ti vi về, rồi ti vi hư phải sửa mấy bận nhưng cái thùng giấy vẫn cất giữ, phòng khi cần. Nhà chật không có lối đi vì khắp nơi nhồi nhét đồ cũ, cả dưới gầm giường, gầm tủ. Có lẽ từ nhiều thế hệ trước, họ sống khổ cực, di dân sang đất Việt lập nghiệp, chuyện tích trữ mọi thứ đã thành thói quen. Họ có câu “Tích cốc phòng cơ, dưỡng nhi đãi lão” mà. Đồ đạc nhiều, nhà cửa tối tăm, bụi bặm và ẩm mốc. Do vậy, mỗi năm một lần vào dịp khoảng sau rằm tháng Chạp gần Tết, không cần hẹn trước, cả xóm bừng tỉnh giấc sáng vì tiếng ồn ào. Mặt trời vừa hửng, người trong xóm hò hét, gọi nhau khiêng hết đồ đạc ra sân, dọn dẹp tổng vệ sinh cả nhà. Mấy gia đình ở chung thì cùng dọn. Cả xóm cùng dọn, năm nào cũng thế.
Lũ trẻ trong xóm thấy cảnh khiêng giường mùng mền chăn gối chén dĩa chất đầy lối đi là biết Tết sắp về, đi học ngang qua mấy nhà đang dọn rửa, bị nước xịt ướt lốm đốm cái áo tới trường mà không bực bội chút nào, lòng lâng lâng vì sắp được nghỉ cả tuần chơi xuân. Mấy người đàn ông cởi trần, bận quần xà lỏn dọn đồ ra sân lấy vòi nước xịt vào bàn ghế tủ, miệng xí xô xí xào. Từ đầu hẻm, lần lượt xuất hiện những người mua ve chai với quang gánh trên vai, mong mua được đồ đống nát, nhôm nhựa. Vào xóm này, may ra họ mua được ve chai của mấy nhà người Việt, chứ người Hoa sau khi rửa ráy, lau chùi đồ xong lại đem cất vô. Riết rồi ngày cả xóm dọn dẹp ăn Tết trở thành phong tục rất thân thương, đến độ đám người Việt trong hẻm cứ chờ, đợi nhà hàng xóm người Hoa dọn dẹp là dọn theo. Họ ỷ lại, gần Tết ngồi canh, đợi bà con người Hoa hò hét nhau thì cũng hét con: “Bữa nay tới ngày dọn dẹp, đi học về là dọn sạch nhà cửa nha con, sắp tới Tết rồi!”.
Trước năm 1994, nhà nước chưa cấm đốt pháo nên Tết mang sắc thái khác bây giờ. Giao thừa, cả hẻm đầy mùi thuốc pháo, cái mùi khó quên. Tết đến, đâu đâu cũng thấy đánh bài tứ sắc với những lá bài nhỏ xíu đủ màu. Áo thì phải là áo mới thì mới mang lại may mắn cho cả năm, tạo thành bức tranh vui và sinh động trong hẻm Tô Châu.
Cho dù ai cũng thích Tết, nhưng đáng nhớ nhất lại là dịp Trung Thu, vì hoàn cảnh đặc biệt của xóm. Vì gần khu chế biến và bán bánh trung thu Đồng Khánh nổi tiếng, cả xóm lãnh gia công lấy nhân hạt dưa để làm nhân bánh. Có người lãnh mấy bao hạt từ lò bánh về, chia cho cả xóm tách lấy nhân. Cả con hẻm tưng bừng vì có việc làm thêm, ngồi chia ra từng nhóm vừa gõ hạt dưa vừa trò chuyện tới tận khuya, càng khuya càng vui. Lúc đó còn mỗi đám thanh niên ngồi gõ hạt, hát hò và chọc ghẹo nhau. Có người mượn xài ké cái búa nhỏ xíu, ngồi gõ hạt không cần lãnh công, chỉ để vui. Tuy vậy, khi lãnh công, chủ cũng đãi đám trẻ một bữa há cảo.
Ngày Tết và Trung thu tùy thuộc vào sự xoay vần của thời gian, nhưng hẻm Tô Châu còn có những ngày vui khác do con người đặt ra. Đó là ngày cưới.
Vân còn nhớ những ngày cưới rất vui của cộng đồng người Quảng Đông trong hẻm này. Có nhiều đám cưới của hai nhà cùng sống trong hẻm. Lúc đó, bên chú rể không cần phải thuê xe rước dâu, chỉ đi bộ. Điều lạ là khi đi rước dâu, bên nữ của hai nhà dồn về phía cô dâu, bên nam của hai nhà dồn qua nhà chú rể cho dù là chị chú rể hay anh cô dâu cũng phải qua phía bên kia. Khi bên đàng trai tới, người lớn vào nhà hết và phía đàng gái bắt đầu trò chơi của mình. Họ ra điều kiện, muốn rước được cô dâu, tất cả người phía đàng trai phải làm theo yêu cầu của họ. Các trò đưa ra: hít đất với số lần tùy đàng gái, hát một bài, chú rể phải cõng một người nào đó đi quanh sân bao nhiêu vòng… Đàng trai làm theo các yêu cầu trong tiếng reo hò ầm ĩ của đàng gái và người trong hẻm. Ai nấy đều mồ hôi nhễ nhại trong cái nắng Sài Gòn, chú rể và các anh con trai diện láng coóng bị tung áo, sút cà vạt, thở phì phò, hoa cầm tay héo rũ rượi. Bên đàng gái còn sẵn sàng bày ra nhiều trò tai quái nữa cho đến khi người lớn trong nhà giục sắp đến giờ rước dâu, họ mới tha cho nhưng ra yêu cầu về tiền lì xì. Số tiền cắc cớ, có thể là 9.999.999 đồng, không thiếu không thừa một đồng. Đàng trai đương nhiên đã chuẩn bị tiền theo phong tục nhưng vẫn phải đáp ứng đúng yêu cầu, kẻo bị từ chối. Dù sao, có “tay trong” là cô dâu, cuối cùng mọi chuyện sẽ qua vì chính cô dâu cho bỏ qua. Có khi chú rể nổi cáu: “Thôi, mệt quá rồi, không thèm rước dâu nữa!”. Có lúc đàng gái không mở cửa, chú rể nổi khùng lắc cửa rầm rầm. Cuối cùng mọi chuyện vẫn diễn ra suôn sẻ, như bao đám cưới đã diễn ra từ thời xa xưa ở cố hương của họ, được tái hiện trong cái hẻm nhỏ vùng Chợ Lớn này.
Trong hẻm có căn nhà số 13 rất lạ. Ở đó chỉ có một phụ nữ giàu có ở một mình nhưng thuê nguyên căn nhà. Cô bày biện trong nhà luôn sáng sủa, sạch sẽ nhìn vô ai cũng thích. Điều đáng nhớ là mỗi lần cô muốn ăn há cảo, cô mở rộng cửa nhà, đặt cái bàn rộng giữa phòng khách. Cả xóm biết ý, ai rảnh đến nhà cô cùng nhào bột, cùng ngồi quanh cái bàn nặn từng cái há cảo đặt vào vỉ để hấp. Người này lo hấp bánh, người kia lo nhào bột tưng bừng cả xóm. Xong việc, cô chia cho mỗi người một phần mang về nhà. Từ nhỏ, Vân đã biết cô giàu có, nhưng không biết vì sao sống thui thủi không chồng không con như vậy và lấy hàng xóm làm gia đình!
Trở lại câu chuyện nhà A Hỏi. “Hỏi” gọi theo người Việt là Hải. Nhà A Hỏi sát vách nhà Vân. Hai mẹ con đến thuê nhà ở đây khi anh con trai A Hỏi còn ẵm trên tay. Câu chuyện vì sao người phụ nữ không chồng ẵm con tới sống ở đây, chỉ thuê một phòng nhỏ trong con hẻm này chỉ có ông chủ Tô Châu mới biết. Ông đi rồi thì bí mật mãi được giữ trong lòng người đàn bà ấy. Bà và con trai cứ âm thầm sống, sáng sáng đẩy xe hủ tiếu mì xá xíu đi khắp nơi, mẹ bán, con rửa chén, tới chiều nếu còn ế ít tô bà ấy đến lay cánh cửa sắt nhà Vân, giọng lơ lớ: “A Hoành đói không? Ăn mì không?”. Vân chỉ chờ có thế thôi, gật lia lịa. Hủ tíu mì hoành thánh của bà ngon lắm, không biết vì tuổi thơ đói nghèo hay vì tô cuối cùng trong nồi, nước lèo đặc quánh và ngọt tới tê đầu lưỡi, luôn có cọng xà lách được rưới nhẹ nước lèo lên trên.
A Hỏi phụ mẹ bán từ nhỏ khá vất vả, bán xong về rửa chén, dọn dẹp mà cứ bị la hoài. Mẹ A Hỏi luôn mắng con là ham chơi, nhưng Vân biết là A Hỏi chỉ thích đi học như Vân. Vân tặng cho A Hỏi cuốn vần tiếng Việt, bắc ghế ra sân, chỉ từng chữ. Mười một, mười hai tuổi, A Hỏi bắt đầu học a bờ cờ như vậy đó, từ cô giáo Vân nhỏ hơn một tuổi.
Thời gian trôi qua, A Hỏi vẫn ngày ngày đẩy xe hủ tíu mì hoành thánh đi bán. Có những ngày cúp điện lại mưa tầm tã, con hẻm Tô Châu biến thành sông, đồ đạc trôi lổn ngổn. Vân đi học về lội bì bõm vào nhà, vẫn thấy xe mì của hai mẹ con đẩy ra khỏi hẻm. Vân hỏi: “Mưa mà vẫn đi bán sao?”. A Hỏi cười: “Có để sẵn một tô cho A Hoành trong bếp, vô ăn liền đi nha!”.
Vân lấy chồng, rời hẻm Tô Châu năm 1993 sau 12 năm sống ở đó, nếm trải đủ vui buồn trong một cộng đồng người Hoa Chợ Lớn chân chất, hiền hòa. Ngày Vân xuất giá, cổng nhà Vân dán hoa gắn lá đầy trước cửa. Trước ngày đó, Vân thấy A Hỏi buồn buồn, hỏi: “A Hoành lấy chồng hả?” rồi khóc. Vân chợt nhận ra, lâu này từng tô mì hai mẹ con mời mình ăn có chứa rất nhiều tình nhiều ý.
Tác giả: Phạm Công Luận
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét