Đối
với hầu hết các học giả bị ám ảnh bởi các học thuyết hiện thực, Trung
Quốc và Việt Nam không thể duy trì mối quan hệ tin cậy lẫn nhau về mặt
lịch sử và những mối quan địa chính trị. Thậm chí nhà ngoại giao kỳ cựu
Hoa Kỳ Henry Kissinger lập luận rằng “với sự sụp đổ của Sài Gòn năm
1975, cuộc tranh chấp vốn có giữa hai quốc gia cộng sản đã bùng nổ, dẫn
đến thắng lợi về địa chính trị đối với hệ tư tưởng.”
“Với
điều này, Bắc Kinh có nghĩa vụ phải đối mặt với cơn ác mộng chiến lược ở
biên giới phía Nam”. Một phần đúng, nhưng nó không phải là toàn bộ bức
tranh về mối quan hệ Trung-Việt trong những thập niên vừa qua.
Hai
quốc gia này, mặc dù có những tranh chấp về lãnh thổ, thì vẫn có thể
duy trì được các mối quan hệ kinh tế ngày càng phát triển và các mối
quan hệ chính trị ổn định bởi hiện diện một mối liên hệ mạnh mẽ và có
phần đoàn kết giữa hai đảng cầm quyền. Chính vì vậy, trong thời gian từ
ngày 10 đến ngày 13-11, Chủ tịch Trung Quốc, cũng là Tổng Bí thư Trung
ương ĐCSTQ Tập Cận Bình đã đến thăm Việt Nam - nơi ông gặp tất cả các
quan chức cao cấp nhất của Hà Nội.
Hai
bên, tiếp tục gieo rắc tinh thần đồng cảm và tình anh em, liên tục trao
đổi quan điểm sâu sắc về quan hệ giữa hai đảng và hai nhà nước.
Trên thực tế, cần lưu ý rằng Trung Quốc có 3 kênh ngoại giao với
nước ngoài. Thứ nhất, ngoại giao giữa chính phủ và chính phủ có ý nghĩa
pháp lý. Thứ hai, là kênh dựa trên mối quan hệ kinh tế, văn hoá, lấy
người dân làm nền tảng của ngoại giao. Thứ ba, Trung Quốc quan tâm sâu
sắc đến các đảng cầm quyền của nước ngoài. Là một nhà nước cộng sản,
Trung Quốc rõ ràng cam kết có các cuộc đối thoại với các đảng cầm quyền
của các quốc gia cộng sản khác, chẳng hạn như Cuba, Việt Nam, Lào và
Triều Tiên.
Xét
về điều này, Tập Cận Bình nhấn mạnh chuyến thăm Việt Nam của ông sẽ
củng cố tình hữu nghị lâu dài, tăng cường hợp tác và vạch tương lai tươi
sáng trong mối quan hệ Trung Quốc - Việt Nam. Cả Trung Quốc và Việt Nam
đều tuân theo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, gắn bó với con đường chủ
nghĩa xã hội, củng cố tình đoàn kết và hợp tác.
Và
chính từ lý do này đã định hình cho cái gọi là sẵn sàng hợp tác với Hà
Nội để tìm kiếm 1 chính sách ổn định, lâu dài theo 4 tốt và 16 chữ
vàng.
Có
vẻ một loạt sự đồng thuận quan trọng giữa hai đảng đã được chuyển đổi
thành kết quả thực tiễn. Về kinh tế và thương mại, Trung Quốc đã mời
Việt Nam tham gia “Sáng kiến về 1 con đường và 1 vành đai” - là một phần
cốt lõi của chiến lược phát triển Trung Quốc trong thập kỷ tới, bao gồm
khu kinh tế biên giới và một số dự án trọng điểm khác. Trong 15 năm
tới, Trung Quốc sẽ nhập khẩu hàng hóa trị giá hàng tỷ đô la Mỹ từ Việt
Nam và đầu tư vào Việt Nam, Bắc Kinh dành hơn 10 tỷ đô la cho hơn 500 dự
án như cơ sở hạ tầng, giáo dục, văn hoá và du lịch tại Việt Nam.
Cũng
với chuyến thăm của ông Tập đến Hà Nội, hai bên đã ký kết một loạt các
hiệp định và nghị định liên quan đến nông nghiệp, công nghiệp, hàng
không, năng lượng tái tạo, quản lý tài chính, an ninh song phương và
kiểm soát biên giới.
Tương
tự, trong các vấn đề mang tính chất truyền bá quyền lực mềm, Chủ tịch
Tập Cận Bình cũng đã tham dự lễ ra mắt Cung Hữu nghị Việt - Trung, được
xây dựng với sự trợ giúp của Trung Quốc.
Cung này sẽ là địa điểm tổ chức các sự kiện chính trị, xã hội và văn hoá, tượng trưng cho tình hữu nghị giữa hai dân tộc.
Biển đảo là vấn đề gây chia rẽ hai đảng, nhưng người dân Việt mới là chủ thể phản ánh mạnh nhất |
Tuy
nhiên, dường như mối quan hệ 2 đảng chưa bao giờ là một sự gắn kết
tuyệt đối, bởi nó bị ảnh hưởng ít nhiều từ dư luận xã hội hai nước,
trong đó có Việt Nam.
Nhiều
người Việt cảm thấy dễ tha thứ cho người Mỹ hơn người Trung Quốc, mặc
dù hàng triệu người chết vì cuộc chiến tranh Việt Nam - đôi khi được gọi
là Chiến tranh Đông Dương (1955 - 1975). Các cuộc thăm dò ý kiến gần
đây cho thấy rằng Hoa Kỳ là quốc gia được ưa thích nhất của người Việt
Nam, trong khi Trung Quốc thì nhận được ít thiện cảm hơn. Năm ngoái, một
cuộc điều tra của Pew cho thấy 84% người Việt Nam xem Hoa Kỳ là tốt,
tăng từ 76% năm 2014; trong khi đó, con số này với Trung Quốc giảm từ
16% xuống còn 10%. Trong một cuộc khảo sát năm 2014, 77% người Việt Nam
nhìn nhận Nhật Bản là tích cực và 67% nhìn thấy Ấn Độ thân thiện. Các
cuộc thăm dò của Pew cũng cho thấy gần như tất cả người dân Việt Nam -
95% - ủng hộ chủ nghĩa tư bản.
Trước đó, không có quốc gia nào được hỏi ý kiến vượt quá 90%, ngay cả Hoa Kỳ.
Trước đó, không có quốc gia nào được hỏi ý kiến vượt quá 90%, ngay cả Hoa Kỳ.
Rõ
ràng, nhiều người Việt Nam nhìn thấy mối đe dọa từ Hoa Kỳ trong quá
khứ, và rất vui khi rời bỏ nó. Nhưng họ nhận thấy mối đe dọa từ Trung
Quốc ở đây và bây giờ. Những ký ức về cuộc chiến tranh biên giới ngắn
ngủi nhưng đẫm máu vào năm 1979 vẫn còn nán lại - cũng như những ký ức
về sự chiếm giữ của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà
Việt Nam tuyên bố là lãnh thổ thiêng liêng của mình.
Do
đó, liệu 1 ngày, ĐCSVN sẽ tách và đối lập hoàn toàn với dư luận xã hội,
điều đó có thể xảy ra, bởi dường như lợi ích và góc nhìn hai bên đang
dần chệch hướng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét