Thiền
Lâm - Calitoday
Tháng 12/2017, Ngân hàng ANZ của Úc đã chính thức chia tay th- ị trường Việt Nam.
Từ
giữa năm 2017, ngay sau khi rộ lên thông tin về hàng loạt ngân hàng
nước ngoài rút vốn khỏi Việt Nam cùng những đánh giá đây là sự chia tay
với một thị trường đã kém hấp dẫn và tính minh bạch chưa cao…, đã xuất
hiện vài lời trấn an rằng hiện tượng này chỉ là những trường hợp cục bộ
và có tính đặc thù của từng ngân hàng.
Duy
có điều, “những trường hợp cục bộ” như thế lại mang khuynh hướng số
nhiều: HSBC thoái vốn tại Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank), ANZ Việt
Nam đã bán toàn bộ mảng dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam cho ngân
hàng Shinhan Việt Nam, và gần nhất là vụ Ngân hàng CommonWealth Bank of
Australia (CBA) chuyển giao toàn bộ hoạt động kinh doanh của chi nhánh
tại Tp.HCM cho ngân hàng Quốc tế Việt Nam (VIB).
Đến
lúc này, sự thể đã không còn được xem là đơn giản, như một giai đoạn
thoái vốn tạm thời rồi sau đó sẽ phục hồi. Một chuyên gia tài chính –
ngân hàng là ông Nguyễn Trí Hiếu nhận định rằng về bản chất, đây là sự
thu hẹp hoạt động tại Việt Nam của ngân hàng nước ngoài. Nguyên nhân do
tỷ lệ nợ xấu lớn, quản trị doanh nghiệp còn hạn chế… những yếu tố này đã
làm giảm tính hấp dẫn của các ngân hàng Việt Nam.
Từ
năm 2016, một chuyên gia kinh tế là ông Lê Đăng Doanh đã khẳng định
rằng đang có một xu thế các doanh nghiệp nước ngoài rút lui khỏi thị
trường tài chính Việt Nam, mà cụ thể là một số quỹ đầu tư nước ngoài đã
bán tháo khoảng 400 triệu đô la cổ phiếu của họ ở thị trường chứng khoán
của Việt Nam.
Cho
tới nay, hiện tượng ngân hàng ngoại rút vốn hỏi Việt Nam vẫn là một dấu
hỏi chưa có lời giải, do đó vẫn chưa có cơ sở để kết luận về hiện tượng
này là có tính xu hướng hay chỉ mang tính cục bộ, đặc thù.
Tuy
nhiên, rất cần chú ý là hiện tượng trên lại xuất hiện trong bối cảnh
thị trường tín dụng ở Việt Nam đang nổi lên hai vấn nạn – mà nếu không
cẩn thận thì có thể trở thành quốc nạn: bế tắc nợ xấu và “phá sản ngân
hàng
Từ núi nợ xấu đến phá sản ngân hàng
Hiện
thời, số báo cáo chính thức cho biết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã
lên đến 600 ngàn tỷ đồng. Những kỳ họp quốc hội tháng 5 – 6 và tháng 10
– 11 năm 2017 đã chỉ có thể “ra nghị quyết”, nhưng về thực chất không
xử lý được một đồng nợ xấu nào.
Đó
là chưa kể 300 ngàn tỷ đồng nợ xấu mà Công ty quản lý tài sản các tổ
chức tín dụng (VAMC) đã “xử lý” – mà thực chất chỉ là hành động mua trên
giấy, còn số nợ xấu này vẫn y nguyên.
Cộng
cả hai khoản nợ xấu trên, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đầy hãnh
diện có đến 900 ngàn tỷ đồng nợ xấu, chiếm ít nhất 15% tổng dư nợ cho
vay vào khoảng thời gian này.
Với
tình trạng nợ xấu vô phương cứu chữa như thế, rõ ràng hơn bao giờ hết,
trong tổng số hơn 30 ngân hàng thương mại đang tồn tại hiện thời, chắc
chắn có ít nhất 30% có thể phải “đội nón ra đi”, trước khi kế hoạch “tái
cơ cấu ngân hàng” đạt mục tiêu giảm phân nửa số tổ chức tín dụng hiện
có.
Cuối
năm 2016, Chính phủ Việt Nam bắt đầu lộ rõ ý “thí điểm phá sản ngân
hàng”, để đến cuối năm 2017 thì ý tưởng này đã được Chính phủ chính thức
thông qua với một lộ trình cụ thể.
Tháng
6/2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký Quyết định 21/2017/QĐ-TTg về hạn
mức trả tiền bảo hiểm. Theo quyết định này, số tiền bảo hiểm được trả
cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật bảo
hiểm tiền gửi là 75 triệu đồng. Quyết định này có hiệu lực thi hành từ
ngày 5/8/2017.
Bảo
hiểm tiền gửi lại là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo
hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người
gửi tiền hoặc phá sản.
Câu
hỏi rất lớn phải giải quyết là nếu một số ngân hàng thương mại nào đó
rơi vào tình cảnh phải phá sản, tiền gửi của người dân và doanh nghiệp
sẽ chịu số phận ra sao?
Nếu
chiếu theo Luật phá sản, tài sản của ngân hàng phá sản sẽ phải nộp đầu
tiên cho cơ quan thuế của nhà nước, sau đó mới đến việc thanh toán tiền
tiết kiệm cho người dân và rồi mới đến doanh nghiệp. Nhưng đó chỉ thuần
túy là lý thuyết.
Không
có gì chắc chắn đối với điều được xem là “an toàn” của các ngân hàng
Việt Nam, đặc biệt là nhiều ngân hàng có vốn điều lệ nhỏ, luôn là tác
nhân trong những đợt sóng kinh hoàng về tăng lãi suất tiết kiệm và lãi
suất cho vay.
Những
dấu hiệu trên cho thấy “đảng và nhà nước ta” không còn sức để trì níu
những ngân hàng thương mại làm ăn bết bát và ngập ngụa nợ xấu.
Không
thể loại trừ bất ổn về nợ xấu và ngân hàng ở Việt Nam là một nguyên do,
thậm chí là nguyên do chính, khiến dẫn đến xu hướng một số ngân hàng
nước ngoài rút vốn khỏi Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét