Nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa nghĩa hiện nay đang đối mặt với nhiều nghịch
lý trong đó có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, từ những yếu tố
trên tạo ra rất nhiều thách thức mà những người quản lý đất nước không
thể bỏ qua nếu còn mang trái tim Việt.
Theo
tin tức trong nước, trong quý 3-2017, cả nước có hơn 1 triệu lao động
trong độ tuổi thất nghiệp, trong đó nhóm trình độ đại học trở lên là
237.000 người, tăng 53.900 người so với quý 2, tỉ lệ thất nghiệp của
nhóm này là 4,51%.
Vì
vậy, những thay đổi cần thiết và rốt ráo với một quyết tâm cải sửa
những sai lầm liệt kê dưới đây sẽ là những giây phút sám hối và chuộc
tội đối với dân tộc Việt của CSVN.
Bài viết nầy xin được đan cử một số suy nghĩ về tình trạng suy thoái giáo dục ở Việt Nam trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa.
Xã hội hóa giáo dục xã hội chủ nghĩa
Chính
sách “xã hội hóa giáo dục” đã được khơi mào ngay từ khi Bộ luật Giáo
dục ban hành năm 2005 trở đi. Kể từ mốc thời gian nầy, Nhà nước sẽ giữ
vai trò quyết định trong việc phát triển công tác giáo dục (mission of
education), trực tiếp điều hành sự đa dạng trong các thể loại trường ốc
và cơ cấu giáo dục như giáo trình, học cụ, nhân viên giảng huấn v.v…Thêm
nữa, Nhà nước còn khuyến khích, khởi xướng, và khích lệ tất cả các tổ
chức, gia đình, và mọi công dân quan tâm đến giáo dục... để cùng hoàn
thành mục tiêu giáo dục trong một môi trường lành mạnh.
Luật
trên lý thuyết rất trong sáng, nhưng có thể nói trong suốt suốt thời kỳ
“cai trị” miền Bắc từ năm 1954, cũng như miền Nam sau 30/4/1975, một
Đạo luật bất thành văn luôn luôn hiện hữu trong tất cả chính sách giáo
dục từ tuyển sinh cho đến việc chọn lựa trường ốc, từ văn bằng tốt
nghiệp đại học cho đến việc phân bổ nhiệm sở, thậm chí cho đến lương
bổng cùng phụ cấp... cũng còn nhiều phân biệt đối xử.
Đó là chính sách “Hồng hơn Chuyên”.
Khi
còn là học sinh, sinh viên, tầng lớp “con ông cháu cha cộng sản” hưởng
đủ mọi ưu đãi của nhà trường, nào là được điểm ưu tiên trong các kỳ thi
cử nhứt là khi các cậu ấm cô chiêu nầy bắt đầu vào tầng lớp “học sinh,
sinh viên nồng cốt”, rồi “đối tượng Đoàn”, Đoàn, rồi đối tượng Đảng, sau
cùng là Đảng.
Ngay
sau khi tốt nghiệp, các cô cậu Cử lại được điền khuyết vào những vị trí
béo bở vừa an toàn cho bản thân, vừa có điều kiện tiếp nối cha ông
trong... bước đường vinh thân phì da và tàn phá tài nguyên cùng sinh khí
của dân tộc.
Chính
chính sách nầy và hệ lụy của nó làm thui chột bước phát triển của tuổi
thanh niên, tương lai của một dân tộc. Một khi lý tưởng quốc gia, tình
tự dân tộc đã bị đánh mất, tuổi trẻ Việt Nam tương lai sẽ mất phương
hướng và Đất và Nước sẽ lùi dần vào bóng tối.
Nghịch lý về số lượng
Mặc
dầu số trường ốc, học sinh, sinh viên, thầy cô có tăng trong theo thời
gian, nhưng mức tăng trưởng không theo kịp đà gia tăng dân số. Nhu cầu
Thầy Cô tăng trưởng và phân bố không đồng đều như dư thừa ở các thành
phố và thiếu hụt ở các vùng xa xôi. Vã lại, mục tiêu đào tạo tập trung
vào kỹ thuật do đó cả thầy và trò đều khiếm khuyết một số tri thức về xã
hội chung quanh…từ đó nảy sinh ra sự “vô cảm” trước những người bất
hạnh chung quanh, cũng như nảy sinh ra quá nhiều hiện tượng tiêu cực
trong nhà trường và trong các cơ sở hay xí nghiệp.
Thành
phần giáo viên ở mọi cấp là một thành phần “bán cháo phổi” bị thiệt
thòi nhiều nhất. Chính vì vậy rất nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp
không nhận nhiệm sở mà làm nhiều công việc không phù hợp với khả năng
của mình. Thí dụ sinh viên tốt nghiệp sư phạm ban Anh ngữ hay Pháp ngữ
thường bỏ nhiệm sở đi làm cho các công ty ngoại quốc với lương bổng gấp
10 hay 20 lần cao hơn. Đây là một thất thoát nhân lực và nguyên khí quốc
gia không nhỏ.
Nghịch lý về phẩm chất
Giáo
dục CSVN nặng về lý thuyết. Học sinh, sinh viên học ngày học đêm, quên
cả tuổi trẻ mà phẩm chất vẫn kém. Người thầy vẫn còn áp dụng phương pháp
từ chương “đọc, chép” và không có điều kiện hay không muốn cập nhật hóa
môn giảng dạy của mình.
Về
chương trình giảng dạy quá nặng nề và có nhiều tiết mục chiếm nhiều
thời gian học tận mà không cần thiết như Triết học Mác Lênin, Chủ nghĩa
xã hội khoa học, Kinh tế chính trị Mác Lênin, Lịch sử đảng CSVN và tư
tưởng HCM. Những môn học nầy hoàn toàn không giúp ích được gì trong suy
nghĩ của những chuyên viên tương lai trong việc xây dựng và phát triển
đất nước. Có chăng các môn học trên sẽ đào tạo ra những “robot” trung
với đảng và sống chết với đảng, còn đảng là còn công an... mà thôi!
Hình
dung chương trình học lớp 12 có 39,5 giờ trong một tuần, nhưng tiết học
thể thao và quân sự học đường chiếm 2 giờ và các giờ sinh hoạt khác như
đoàn thanh niên, học tập chính trị qua các môn học kể trên chiếm 10.5
giờ. Do đó, học sinh học chuyên môn thực sự chỉ còn có 27 giờ.
Chính Nguyễn Khoa Đạo, Viện sĩ, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội đề nghị là “phải nhìn thằng vào sự lạc hậu của nền giáo dục Việt Nam so với thế giới và so với nhu cầu của đất nước và thời đại mới”.
Hoặc ông Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển trong một báo cáo về tình hình giáo dục Việt Nam trước quốc hội rằng: “chất
lượng giáo dục thấp, phương pháp giảng dạy lạc hậu, chậm đổi mới, kỹ
năng thực hành và khả năng tự học của học sinh còn thấp, nạn học thêm
hay dạy thêm, bằng cấp giả chưa được giải quyết, cơ chế quản lý giáo dục
chưa thích hợp với nền kinh tế thị trường, việc quản lý còn nặng tính
quan liêu”.
Phân
tích và nhận định quá chính xác, nhưng tình trạng giáo dục vẫn không
thay đổi vì một cơ chế đóng băng của đảng, giống như những ngày đầu tiên
CSVN nắm quyền cai trị dân, thử hỏi làm sao đất nước không lụn bại
được. Thêm nữa, về nạn bằng cấp già, chính cán bộ, đảng viên từ Bộ Chính
trị cho đến Trung ương đảng, người người, nhà nhà đều xài bằng cấp giả.
Ngay
cả một ông cựu bộ trưởng Giáo dục, Phó thủ tướng, và bây giờ là Ủy viên
Bộ Chình trị tốt nghiệp Tiến sĩ ở một trường đại học ngoại quốc trong
khi trường đó chỉ được thành lập 9 năm sau ngày ông tốt nghiệp!
Về phương pháp giảng dạy
Có
thể nói, hầu hết Thầy Cô ở Việt Nam vẫn còn áp dụng phương pháp giảng
dạy “người Thầy là người phát ngôn (speaker) chánh, và học trò là người
nghe “listener” chính. Chính phương pháp nầy tạo ra một sự nhàm chán
trong học tập và thúc đẩy việc học trong chiều hướng thụ động, học thuộc
lòng, và học sinh không cẩn tìm hiểu hay đặt câu hỏi.
Việt
Nam cần một phương pháp giảng dạy cách mạng hơn, linh động hơn trong
việc đào tạo người thấy trong chiều hướng toàn cầu hóa và sau đó áp dụng
cho học trò hầu mong tạo dựng được một sinh khí mới trong giáo dục.
Một
nguyên nhân khác trong việc giảng dạy là người Thầy luôn bị áp lực là
dạy theo giáo án, giáo trình “một cách mù quáng”, không thể thay đổi
ngay cả giáo án có nhiều điểm sai đầy dẫy trong đó. Người viết đã khám
phá trong kỳ thi tuyển vào Đại học Sư phạm Sài Gòn năm 1976, đề thi môn
hóa học sai trái và thiếu nhiều dữ kiện để lý giải. Khi báo cáo lên “Ông
Chủ khảo” trường thi, thì được trả lời thẳng thừng là “đừng nói ra” và
buổi thi vẫn tiếp tục như không có chuyện gì xảy ra. Như vậy, người thầy
xã nghĩa là một người thầy không còn “nhân vị” nhưng luôn được chế độ
gán cho danh hiệu cao quý là “kỹ sư tâm hồn”. Tâm hồn đây phải chăng là
tâm hồn của một con cừu Panurge!
Thêm
nữa, lớp học quá tải cũng là một nguyên nhân làm cho việc giảng dạy
không có hiệu quả và cũng là một thách thức cho người thầy mỗi khí áp
dụng một phương pháp giảng dạy mới và tân tiến hơn. Phương pháp học
nhóm, kiểm soát liên tục, sinh hoạt học tập ngoài lớp học tạo sự sáng
tạo nơi học sinh, sinh viên không thể nào được áp dụng trong điều kiện
sinh viên đông đúc như hiện tại được.
Về Giáo viên, Giáo sư, Trường ốc, và Học cụ giảng dạy
Việt
Nam hiện đang thiếu nhân viên giảng huấn trầm trọng cả về phẩm lẫn
lượng. Rất nhiều người thầy không hội đủ điều kiện chuyên môn để giảng
dạy, nhưng vì nhiều lý do khác nhau vẫn được đứng lớp, đôi khi còn được
đãi ngộ tốt hơn so với người thầy đúng nghĩa với đầy đủ chuyên môn.
Tuyệt đại đa số người thầy xã nghĩa không có điều kiện nghiên cứu, hay
không chịu nghiên cứu vì lười, vì có nhiều bận tâm khác v.v... hay nhất
là không có khả năng nghiên cứu! Vì thế làm sao họ có thể thăng tiến
chuyên môn và truyền đạt kiến thức cho học sinh hay sinh viên được.
Về
trường ốc và học cụ giảng dạy, đa số trường ở Việt Nam không có các
phòng thí nghiệm, chỉ học “chay” mà thôi. Thư viện để tham khảo cũng là
một xa xỉ ngay cả ở bậc đại học.
Xây
dựng phòng ốc, tạo điều kiện cho học sinh có một môi trường học tập
thích hợp sẽ khuyến khích con em chúng ta trên bước đường học vần, và
làm giảm áp lực của người thầy trong việc giảng dạy.
Về việc quản lý nhà trường và chính sách thi cử
Quản
lý nhà trường cho đến nay vẫn là một điểm yếu của Việt Nam. Chính vì
đặt năng vào sự an toàn của đảng, cho nên việc kiểm soát sinh viên, học
sinh và người thầy rất khắc nghiệp. Một chính sách công an trị trong học
đường chỉ còn tồn tại ở một và quốc gia độc tài mà thôi. CSVN vẫn luôn
luôn muốn cấy chủng tử sợ vào đầu người thầy và trò.
Chính
sách thi cử cũng là một hạn chế bước tiến của dân tộc. Chính sách thi
vào lớp 10 còn tồn tại; thi vào đại học rất phức tạp... từ đó tạo ra một
gánh nặng hành chánh trong việc ra đề thi và tổ chức thi cử. Và cũng từ
đó tệ trạng gian dối trong thi cử như bán đề thi, lộ đề thi, đánh “bùa”
(phao), giám thị làm lơ, thầy đi ra ngoài... để cho thí sinh mặc tình
quay cóp, thậm chí còn rất nhiều cảnh... người đi thi thay thế cho thí
sinh. Và cũng cần nói thêm là trong trên 24 ngàn Tiến sĩ hiện diện trên
mãnh đất hình chữ S nầy, có mấy “Tiến sĩ” được đào tạo chính thức, nghĩa
là “có đi học”, làm nghiên cứu, và viết luận án?
Tham nhũng trong trường học là một vấn đề lớn ở Việt Nam - Giáo viên sợ hãi vì chống lại những sinh viên ăn gian
Thầy
Đỗ Viết Khoa vào ngày 10 tháng 12 năm 2008, đã cố gắng xóa bỏ hối lộ và
hiện tượng gian lận ở các trường tiểu, trung, và ngay cả đại học ở Việt
Nam, nơi các giáo viên được trả lương thấp, và phụ huynh nghèo khó
không có khả năng chi trả những chi phí nhập học và chi phí hàng tháng,
trong đó có rất nhiều chi phí vô lý được dựng lên do cán bộ quản lý
trường.
Trong
nhiều năm, Thầy Khoa đã và đang chống lại tội hối lộ và gian lận các
trường học trên khắp Việt Nam, nơi các giáo viên và quản trị viên trả
lương thấp thường vắt kiệt tiền của những đứa trẻ thậm chí còn nghèo
hơn.
Lãnh
đạo CSVN đã thông qua luật chống tham nhũng rộng rãi trong năm 2005,
nhưng thực hiện không đồng đều. Việt Nam vẫn kém cỏi trong các cuộc điều
tra tham nhũng toàn cầu, và đối với người Việt Nam bình thường, những
người kho báu giáo dục, tham nhũng trường học có lẽ là điều gây phẫn nộ
nhất của tất cả. Rất ít người dám đấu tranh với nó, vì sợ trả đũa.
Thầy
Khoa cũng đã từng vi phạm đạo luật mới Hiệu trưởng Lê Xuân Trung sau
khi gửi thư cho các quan chức trong nước và địa phương cáo buộc rằng ông
HT Trung đã áp đặt những khoản phí không công bằng khác nhau để làm
giàu cho nhân viên trường học với chi phí của cha mẹ.
Cũng
như, một trong những ưu tư và phàn nàn lớn nhất của Thầy Khoa là "những
lớp học thêm" được thực hiện tại trường học và những nơi khác trên khắp
đất nước, trong đó các giáo viên dạy học thường xuyên dạy kèm sinh viên
để kiếm thêm tiền…
Thầy Khoa nói: "Nếu học sinh không đi học thêm, giáo viên sẽ cho họ điểm kém".
Vợ Thầy Khoa, bà Nguyễn Thị Nga, lo lắng về cuộc thập tự chinh của chồng bà. Bà nói: "Điều này đã gây ra nhiều căng thẳng". "Tôi
muốn tất cả mọi người tham gia cuộc chiến chống tham nhũng để chúng tôi
không phải là những người đứng cô đơn trong tranh đấu".
Ông nói: "Nhiều giáo viên đang làm cho hình ảnh giáo dục bị ô nhiễm".
Kết quả của cuộc tranh đấu chống tham nhũng và các tệ hại trong giáo dục CSVN là:
- Thầy Khoa bị sa thải khỏi môi trường giáo dục, bị bắt, ngồi tù mấy năm;
- Hiện Thầy Khoa làm nghề tự do, và bị theo dõi thường xuyên vì có nguy cơ gây hại đến... an ninh tổ quốc!
Cái đẹp của giáo dục miền Nam trước 1975
Xin trích từ VietnamNet - Hình
ảnh và những tư liệu về giáo dục Miền Nam Việt Nam trước 1975 đang được
chia sẻ trên các trang mạng. Mục tiêu giáo dục thời điểm này được xác
định là: Phát triển toàn diện mỗi cá nhân; Phát triển tinh thần quốc gia
ở mỗi học sinh; Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Mô hình giáo dục này trong những năm 1970 có khuynh hướng chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn.
Hệ
thống giáo dục gồm tiểu học, trung học và đại học, cùng với một mạng
lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và
hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
Triết lý giáo dục của miền Nam dựa trên 3 nguyên tắc “nhân bản”, “dân tộc” và “khai phóng”.
Mục tiêu giáo dục thời điểm này được xác định là: “Phát
triển toàn diện mỗi cá nhân; Phát triển tinh thần Quốc gia ở mỗi học
sinh; Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học”.
Thay lời kết
Trong
điều kiện giáo dục ở Việt Nam hiện tại, phẩm chất giáo dục vẫn là chìa
khóa mở ra và giải tỏa tất cả những vấn nạn cùng các thách thức cho Việt
Nam. Phẩm chất giáo dục phải được cải tổ và khai triển từ bậc giáo dục
đại học cho đến trung học đệ nhất cấp.
Chính
một cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo CS, GS TS Trần Hồng Quân cũng
đã nhiều lần thừa nhận cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân hiện tại chưa
thật đồng bộ, sự liên thông giữa các cấp học còn hạn chế. Trong bối cảnh
như vậy, điều cấp thiết là phải định hình, tái cấu trúc hệ thống giáo
dục quốc dân làm nền tảng cho những đổi mới khác của giáo dục.
Thí dụ về một Dự án: “Giáo dục và đào tạo nhân lực y tế phục vụ cải cách hệ thống y tế” vay
vốn Ngân hàng Thế giới (WB) do Thủ tướng CS Nguyễn Tấn Dũng ký duyệt và
Bộ Y tế là cơ quan thi hành Dự án sẽ được thực hiện từ năm 2014-2019.
Tổng kinh phí thực hiện Dự án là 121 triệu USD, bao gồm: - Vốn vay Hiệp
hội Phát triển quốc tế thuộc WB (IDA/WB) 106 triệu USD - Vốn viện trợ
không hoàn lại của Liên minh Châu Âu (EU) tài trợ thông qua WB 10 triệu
USD; - Và vốn đối ứng 5 triệu USD.
Dự án gồm 4 hợp phần:
1-
Cải thiện chất lượng giáo dục nhân lực y tế bậc đại học, cao đẳng thông
qua đổi mới tiếp cận dạy và học dựa trên năng lực và cải thiện hệ thống
bảo đảm chất lượng giáo dục;
2- Nâng cao năng lực quản lý y tế và quản lý sử dụng nhân lực y tế;
3-
Nâng cao hiệu quả hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu thông qua đào
tạo, bổ sung các điều kiện và năng lực cần thiết, đồng bộ cho đội ngũ
cán bộ y tế huyện và xã;
4- Quản lý dự án.
Lại
thêm một dự án liên quan đến giáo dục nữa, trong lúc câu chuyện giáo
dục cũng không khác gì hơn vấn đề y tế, ngày 4/11/2013, Tổng Bí thư CS
Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) có nội dung về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Mục tiêu của đổi mới lần này là
tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về phẩm chất, hiệu quả giáo dục, đào
tạo, giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt
nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
Trên thực tế, chúng ta hãy nhìn vào thực trạng y tế Việt Nam ngày nay sẽ thấy dự án trên được khai triển như thế nào!
Và một thí dụ thứ hai qua chương trình đổi mới là “Đổi mới chương trình sách giáo khoa sau năm 2015”.
Dựa theo đề án Đổi mới chương trình-sách giáo khoa giáo dục phổ thông
sau năm 2015, giai đoạn 2014-2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo phải hoàn
thành việc xây dựng chương trình tổng thể và chương trình môn học thử
nghiệm.
Lại
một chuyện đổi mới chương trình đào tạo và sách giáo khoa, trong lúc
đó, trong quá khứ, hàng năm Bộ vẫn cho in tất cả sách giáo khoa mới cho
hệ thống giáo dục từ dưới lên trên, tiêu tốn hàng ngàn tỷ Đồng VN làm bổ
béo cho một tầng lớp cán bộ giáo dục mà thôi, thậm chí những sai trái
trong sách vẫn còn in hiện rõ trong những năm sau đó.
Nêu
ra hai vấn đề cốt lõi cho nam đề Y tế công cộng và Giáo dục, người viết
mong mỏi mỗi người con Việt, trong nước và ngoài nước, động não để lý
giải bài toán phát triển cho Việt Nam tương lai hầu mang lại một sinh
khí mới cho dân tộc.
Đó
là một nền y tế công cộng nhằm mưu cầu cho sự an toàn sức khỏe và chữa
trị đồng đều cho tất cả người dân, không phân biệt giàu nghèo, không
phân biệt đẳng cấp hay thứ bậc trong xã hội, xóa tan não trạng “xin-cho”
do chế độ cấy sâu vào tâm khảm của người dân.
Đó
là, một chính sách giáo dục nhân bản, dân tộc, khoa học và khai phóng
ngõ hầu hy vọng một ngày nào đó trong tương lai, tuổi trẻ Việt Nam sẽ
ngẩng cao đầu ngang tầm với tuổi trẻ thế giới để cùng tạo dựng một xã
hội an bình trong đó con người đối xử với nhau trong tình nhân loại,
nghĩa đồng bào.
Cần
lưu tâm nhiều hơn đối với những dân tộc thiểu số, cũng như thiết lập
một chương trình giảng dạy riêng cho họ vì người thiểu số không có điều
kiện như trẻ con Việt được nói và nghe tiếng Việt qua miệng lưỡi người
mẹ.
Một
khi phẩm chất giảng dạy tăng lên, việc học thêm hay học trường tư lập
sẽ giảm bớt. Từ đó, tình trạng chênh lệch cán cân kinh tế giữa các thành
phần trong xã hội có thể được thâu ngắn hơn qua việc giáo dục phổ cập
vào đại chúng.
Sau
cùng, chính sách giáo dục xã hội chủ nghĩa cần phải được thay thế bằng
một chính sách thông thoáng hơn, không còn bóng dáng công an trong học
đường nữa.
Tương lai Việt Nam đi về đâu?
Câu hỏi trên xin dành cho tuổi trẻ Việt Nam, những người sẽ mang lại lá cờ hồng tự do, dân chủ cho Đất và Nước.
Mong lắm thay!
Đầu năm Dương lịch 2018.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét