Thứ Hai, 30 tháng 4, 2018

2882 - Chiến tranh Việt Minh – Pháp?

Trần Gia Phụng


Sau khi sách Chiến tranh 1946-1954, từ chiến tranh Việt Minh-Pháp đến chiến tranh ý thức hệ Quốc-Cộng được nhà xuất bản Tự Lực phát hành tại California vào tháng 3-2018 và quảng cáo trên internet, có độc giả ở xa e-mail hỏi người viết tại sao lại gọi chiến tranh 1946-1954 là chiến tranh Việt Minh-Pháp?
Lý do câu hỏi nầy có thể vì trước đây, người ta thường quen gọi chiến tranh 1946-1954 là “Chiến tranh Việt-Pháp”, hay là “Cuộc kháng chiến chống Pháp”. Nếu gọi như thế, có nghĩa là xem cuộc chiến nầy xảy ra giữa toàn dân Việt với người Pháp. Trong thực tế, chiến tranh xảy ra tối 19-12-1946 không phải giữa toàn dân Việt với người Pháp, mà là giữa mặt trận Việt Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) với người Pháp. Việt Minh và đảng CSĐD chỉ là một thành phần nhỏ trong toàn dân Việt mà thôi, nên không thể gọi là chiến tranh Việt-Pháp. Lý do chiến tranh chứng thực điều nầy.

Hồ Chí Minh sang Pháp năm 1946. Ảnh: AP

1.- LÝ DO CHIẾN TRANH
Tháng 8-1945, Việt Minh và đảng CSĐD cướp chính quyền, thành lập nhà nước cộng sản đầu tiên ở Á Châu là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). Khi làm lễ ra mắt ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh hô hào cương quyết chống Pháp đến cùng, nguyên văn như sau: “Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Thông Tấn, 2005, tr. 26.)
Tuy nhiên, khi quân Pháp nhờ quân Anh giúp sức, tái chiếm Nam kỳ, và thỏa thuận với người Trung Hoa tiến quân ra Bắc kỳ, Hồ Chí Minh cùng Việt Minh và đảng CSĐD không chống Pháp, mà thỏa hiệp với Pháp, ký liên tiếp hai hiệp ước ngày 6-3-1946 tại Hà Nội (Hiệp định Sơ bộ), và ngày 14-9-1946 tại Paris (Pháp) (Tạm ước tức Modus Vivendi), hợp thức hóa sự hiện diện người Pháp tại Việt Nam. Hành động nầy hoàn toàn trái với lời Hồ Chí Minh thề ngày 2-9-1945.
Quân đội Pháp càng ngày càng gia tăng áp lực, uy hiếp Việt Minh. Sáng 18-12-1946, tại Hà Nội, một chiếc xe của Pháp bị tự vệ Việt Minh tấn công trước trụ sở bộ Tài chính và bộ Giao thông. Pháp gởi cho Việt Minh một thư báo tin Pháp sẽ chiếm trụ sở hai bộ đó, và yêu cầu Việt Minh dẹp bỏ những chướng ngại vật trong thành phố; nếu không Pháp sẽ tự mình khai thông đường sá. Việt Minh xem đây là tối hậu thư thứ nhứt. (Stein Tonnesson, Vietnam 1946 – How the War Began, University of California Press, 2010, tr. 198.)
Cùng ngày 18-12-1946, thiếu tá Pháp Jean Julien gởi cho Việt Minh một thư khác, phàn nàn rằng cảnh sát Việt Minh không chu toàn nhiệm vu, và cho biết nếu việc nầy tiếp tục, Pháp sẽ đảm trách giữ gìn an ninh Hà Nội từ ngày 20-12-1946. Việt Minh xem đây là tối hậu thư thứ hai. (Stein Tonnesson, sđd. tr. 198.)
Cũng trong ngày 18-12-1946, Hoàng Hữu Nam tức Phan Bôi, thứ trưởng bộ Nội vụ Việt Minh, họp công chức Hà Nội, ra lệnh tản cư khỏi thủ đô. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, 1945-1964, Sài Gòn 1965, California: Nxb. Xuân Thu tái bản không đề năm, tr. 30.) Dân chúng phải tản cư toàn diện. Dân quân du kích đến từng nhà, gõ cửa kiểm soát hằng ngày, thúc giục dân chúng phải di tản. (Vân Dung Nguyên, Du lotus au sapin, Québec: Les Éditions GID, 2016, tt. 60-61.)
Sáng 19-12-1946, tướng Louis Morlière, tư lệnh lực lượng Pháp ở Bắc kỳ, gởi thư cho Hoàng Hữu Nam, buộc Việt Minh tước khí giới quân Tự vệ ở Hà Nội, chấm dứt bạo động, đình chỉ việc chuẩn bị chiến tranh và để cho Pháp bảo vệ an ninh thành phố Hà Nội. Đồng thời, Morlière còn đề nghị với Hoàng Hữu Nam triệu tập cuộc họp khẩn cấp để tìm biện pháp tránh xung đột. Việt Minh cho đây là tối hậu thư thứ ba. (Stein Tonnesson, sđd. tr. 204.)
Nếu quân đội Pháp nắm giữ an ninh Hà Nội, nghĩa là kiểm soát luôn lực lượng võ trang Việt Minh, thì sinh mệnh của chính phủ Hồ Chí Minh, các lãnh đạo Việt Minh, các lãnh đạo đảng CSĐD hoàn toàn nằm trong tay quân đội Pháp. Việt Minh không thể chấp nhận điều nầy. Vì vậy, một mặt Việt Minh chuẩn bị chiến tranh, một mặt Hồ Chí Minh họp Trung ương đảng CSĐD lấy quyết định.
Để Pháp khỏi nghi ngờ về những chuẩn bị của Việt Minh, Hoàng Hữu Nam trả lời rằng vấn đề sẽ được cứu xét trong phiên họp hằng tuần vào ngày hôm sau, thứ Sáu 20-12-1946. Hồ Chí Minh viết thư ngắn cho đại diện Pháp là Jean Sainteny yêu cầu Sainteny thương thuyết với Hoàng Minh Giám, thứ trưởng Ngoại giao Việt Minh. Sainteny hẹn gặp Giám cũng vào ngày hôm sau là thứ Sáu 20-12-1946. Võ Nguyên Giáp còn cố gắng thuyết phục tư lệnh quân Pháp ở Bắc kỳ là Louis Morlière rằng để làm cho tình hình bớt căng thẳng, quân Pháp phải tỏ thiện chí bằng cách bỏ lệnh cấm trại, cho lính nghỉ ngơi.
Morlière đồng ý. Tuy nhiên, lúc 5 giờ chiều ngày 19-12, Louis Morlière nhận được tin tình báo cho biết Việt Minh sẽ tấn công tối hôm đó. Morlière liền đổi kế hoạch, ra lệnh duy trì lệnh cấm trại, không cho quân Pháp ra khỏi căn cứ, tập trung thường dân Pháp vào những khu vực gần căn cứ Pháp để dễ bảo vệ, và chuẩn bị đối phó với tình hình. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua 1945-1964, California: Xuân Thu tái bản không đề năm, tr. 30.)
Trong lúc đó, Hồ Chí Minh triệu tập Trung ương đảng CSĐD họp trong hai ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông. Đảng CSĐD đã được Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán ngày 11-11-1945 và thay bằng Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Mác-xít] do Trường Chinh Đặng Xuân Khu làm tổng thư ký. Tuy nhiên, theo lời Hồ Chí Minh “dù là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn lãnh đạo chính nghĩa và nhân dân.” (Hồ Chí Minh toàn tập [tập 6], xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 161.)
Không thể để bị Pháp bắt, và cũng không thể âm thầm bỏ trốn khỏi Hà Nội một cách nhục nhã, Trung ương đảng CSĐD quyết định tấn công Pháp, dùng chiêu bài toàn quốc kháng chiến chống Pháp, bảo vệ độc lập, để giới lãnh đạo Việt Minh và đảng CSĐD có cơ hội thoát thân một cách hợp lý khỏi Hà Nội mà không bị dân chúng chê trách. Vì vậy, Trung ương đảng CSĐD quyết định phát động cuộc chiến chống Pháp trên toàn quốc.
Khi kiếm cách nghị hòa với Pháp, Việt Minh giao cho ban Thường trực Quốc hội gởi điện văn ngày 30-11-1946, yêu cầu Quốc hội Pháp can thiệp để dàn xếp cuộc xung đột Việt Pháp. Trái lại, khi quyết định phát động chiến tranh với Pháp, Hồ Chí Minh không hỏi ý kiến Quốc hội, trên danh nghĩa là cơ quan quyền lực tối cao của người Việt lúc đó, hay ban Thường trực Quốc hội, đại diện cho Quốc hội, gồm những người luôn luôn có mặt tại Hà Nội, mà chỉ hỏi ý kiến Trung ương đảng CSĐD.
Tuy hiến pháp ngày 9-11-1946 bị bãi bỏ ngày 14-11-1946 tức năm ngày sau khi được quốc hội thông qua, và hiến pháp nầy không được ban hành, nhưng lúc đó ban Thường trực Quốc hội đã được bầu lên và có mặt thường xuyên ở Hà Nội. Ban Thường trực có nhiệm vụ liên lạc với chính phủ để góp ý và phê bình, quy định việc thi hành hiến pháp, liên lạc với đại biểu quốc hội khi cần thiết, cùng với chính phủ quyết định tuyên chiến, đình chiến hay ký hiệp ước.
Hồ Chí Minh không tham khảo ý kiến ban Thường trực Quốc hội, mà Hồ Chi Minh chỉ hội ý riêng với Trung ương đảng CSĐD, rồi quyết định tấn công Pháp. Điều nầy có nghĩa là không phải Quốc hội Việt Nam hay ban Thường trực Quốc hội Việt Nam, tức không phải là đại biểu nhân dân Việt Nam quyết định chiến tranh với Pháp, mà Hồ Chí Minh cùng với Trung ương đảng CSĐD tự ý quyết định tấn công Pháp tối 19-12-1946.
Cần chú ý là khi quân Pháp nhờ người Anh giúp đỡ tái chiếm Nam kỳ từ tháng 9-1945, rồi lại đưa quân ra Trung và Bắc kỳ, tổ quốc Việt Nam đã thực sư lâm nguy từ lúc đó. Dầu vậy, Việt Minh không kêu gọi toàn dân chống Pháp, mà Việt Minh kiếm cách thương thuyết với Pháp để tồn tại, duy trì quyền bính. Nay không còn thương thuyết với Pháp được nữa, hết cách thỏa thuận với Pháp, Việt Minh mới quyết định đánh Pháp, là vì Việt Minh lâm nguy chứ không phải là tổ quốc lâm nguy.
Như thế rõ ràng đây là chiến tranh giữa Việt Minh với Pháp, nhưng ngày hôm sau, 20-12-1946, trên đài Phát thanh Bạch Mai, Hồ Chí Minh đưa ra chiêu bài độc lập dân tộc, kêu gọi toàn dân kháng chiến chống Pháp, đổ gánh nặng chiến tranh lên vai dân tộc Việt Nam. Do chiêu bài nầy mà nhiều người đứng lên đáp lời sông núi, lên đường theo Việt Minh chống Pháp.
2.- THÀNH PHẦN TOÀN DÂN
Dựa vào lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, các sách lịch sử do cộng sản xuất bản, gọi cuộc chiến tranh bùng nổ tối 19-12-1946 giữa Việt Minh với Pháp là cuộc chiến chống Pháp của toàn dân Việt Nam. Vậy toàn dân lúc đó là những ai và thái độ chính trị như thế nào?
Trước đây, xã hội Việt Nam được chia thành bốn hạng “sĩ nông công thương”. Qua thời Pháp thuộc, sự phân hạng trên không còn thích hợp, vì trong xã hội mới, văn hóa thay đổi, chính trị thay đổi, kinh tế thay đổi, quan hệ sản xuất thay đổi. Vì vậy, tốt hơn ở đây xin dựa vào nơi sinh sống, để chia toàn dân thành dân thành thị và dân nông thôn, dân miền núi.
THÀNH THỊ
Về chính tri, dân thành thị thời đó gồm bốn nhóm: Đầu tiên là giới quan lại triều đình, công chức thời Pháp thuộc và công chức thời chính phủ Trần Trọng Kim. Có người bị Việt Minh gọi là “Việt gian”, “tay sai thực dân Pháp”. Nhóm nầy tản cư để tránh lửa đạn
Nhóm thứ hai gồm những người không có lập trường chính trị rõ ràng, không thân và cũng không chống bên nào, chỉ muốn yên ổn làm ăn sinh sống. Khi chiến tranh xảy ra, họ tản cư về các vùng nông thôn bình yên, tránh chiến tranh.
Khi Pháp đẩy lui Việt Minh, thì hai nhóm nầy quay về thành thị, tiếp tục làm ăn sinh sống dưới quyền của người Pháp như trước đây, không chú ý đến chuyện chính trị. Như vậy, hai nhóm trên không tham gia cuộc chiến Việt Minh-Pháp.
Nhóm thứ ba ở thành thị là nhóm trí thức tiểu tư sản, có tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm, đứng lên đáp lời sông núi, tham gia kháng chiếng chống Pháp, không nghi ngờ và không hay biết âm mưu và thủ đoạn của Việt Minh và đảng CSĐD. Nhóm nầy bị Việt Minh cộng sản thanh lọc năm 1949 sau khi Việt Minh bắt đầu khá mạnh nhờ nhận viện trợ của Trung Cộng.
Nhóm thứ tư ở thành thị gồm những người có cảm tình và theo Việt Minh, hay đảng viên CSĐD. Nhóm nầy tuy ít nhưng hăng hái, tích cực, chấp nhận gian khổ, tranh đấu vì lý tưởng chủ nghĩa cộng sản.
Khi trở lui Việt Nam, Pháp dùng chiến thuyền đổ quân vào các hải cảng, đánh chiếm trước các thành phố duyên hải. Từ đó, Pháp mở rộng vùng kiểm soát. Pháp để yên cho dân chúng sinh sống trong vùng Pháp chiếm đóng nếu không chống Pháp, không làm hại đến an ninh. Vì vậy, sau khi Pháp ổn định các thành phố, thì nhiều người hồi cư về thành phố, tránh chiến tranh, nhứt là từ năm 1949, khi chính phủ Quốc Gia Việt Nam được thành lập và cũng là lúc Việt minh mở những cuôc thanh trừng nội bộ, loại bỏ những thành phần trí thức tiểu tư sản.
Từ đó, thành phố càng ngày càng đông đúc. Ví dụ điển hình, trước chiến tranh, Chợ Lớn có 500,000 dân. Năm 1949, Chợ Lớn có 1,500,000 dân. (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 173.)
NÔNG THÔN VÀ MIỀN NÚI
Dân nông thôn chiếm đại đa số trong tổng dân số Việt Nam, gồm nhiều thành phần: chủ đất (dịa chủ), nông dân, tá điền (cày thuê), thợ thủ công (mộc, nề, dệt, gốm…), buôn bán nhỏ, làm công (giúp việc). Nông thôn ít trường học, có vùng không có trường học, nhứt là miền núi, nên trình độ văn hóa trung bình thấp, nhiều người mù chữ, dễ bị tuyên truyền, dụ dỗ.  Đất đai là tài sản của dân nông thôn, không di dời được, nên dân chúng phải bám đất mà sống, ở yên tại chỗ, dù không theo cộng sản cũng bị cộng sản khống chế, nên phải tuân theo lệnh của cộng sản để sống.
Nông thôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống: 1) Về kinh tế, nông thôn cung cấp lúa gạo, thực phẩm cho thành phố, kể cả cung cấp thực phẩm nuôi quân và cán bộ Việt Minh. 2) Về quân sự, Việt Minh dùng nông thôn và vùng rừng núi làm hậu cứ, lập hầm bí mật để trốn tranh. Việt Minh ngụy trang thành nông dân, trà thộn ở nông thôn. Nông dân là nguồn nhân lực cung cấp lính cho Việt Minh. Nhờ đi lại với thành phố, nông dân còn cung cấp tin tức tình báo và quân sự cho Việt Minh. Việt Minh kiểm soát chặt chẽ dân cư nông thôn, đoàn ngũ hóa dân chúng, huấn luyện dân quân, thi hành kế hoạch của Trung Cộng: Lấy nông thôn bao vây thành thị.
Quân đội Liên Hiệp Pháp không thể kiểm soát tất cả nông thôn khắp nước, mà chỉ đóng quân trong các căn cứ, ở các thị trấn, rồi mở những cuộc hành quân tảo thanh Việt Minh. Quân Liên Hiệp Pháp (Pháp, Bắc Phi) khác chủng tộc, khác ngoại hình, dễ bị nhận biết, nên hành quân đến đâu, dân chúng biết ngay. Dân chúng bắt buộc phải báo tin cho Việt Minh vì nếu không sẽ bị Việt Minh trừng trị ngay. Khi quân Liên Hiệp Pháp rút về căn cứ, Việt Minh trở lại hoạt động, nhứt là ban đêm. Việt Minh tổ chức kiểm điểm và xét xử. Những ai bị tố cáo là “Việt gian”, tiếp tay cho Pháp, sẽ bị tử hình. Nhờ khủng bố một cách sự tàn ác, Việt Minh khống chế được dân nông thôn theo lệnh của Việt Minh.
KẾT LUẬN
Như thế, hai yếu tố trên đây (nguyên nhân chiến tranh và thành phần dân chún đủ cho thấy chiến tranh 1946-1954 là cuộc chiến giữa Việt Minh cộng sản với Pháp, chứ không phải giữa toàn dân Việt Nam với Pháp. Đó là vì Việt Minh bị Pháp dồn vào thế cùng, nên Việt Minh đánh Pháp để trốn chạy khỏi Hà Nội. Không phải toàn dân chống Pháp, vì phần lớn dân chúng tìm đến vùng an ninh, nhứt là các thành phố đề sinh sống. Dân chúng nông thôn không chạy được, phải bám đất để cày bừa, dầu không theo Việt Minh vẫn bị Việt Minh kềm kẹp, kiểm soát chặt chẽ.
Vì vậy, không thể gọi chiến tranh 1946-1954 là chiến tranh Việt-Pháp, mà nên gọi cho đúng sự thật là CHIẾN TRANH GIỮA VIỆT MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG VỚI PHÁP. Lúc đầu Việt Minh thua chạy. Đến năm 1949, Trung Cộng thành công ở Trung Hoa. Trung Cộng bắt đầu viện trợ dồi dào cho Việt Minh, làm thay đổi cuộc diện chiến tranh …

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét