Dự luật Lao động (sửa đổi) sẽ được Quốc hội Cộng sản Việt Nam thảo luận để thông qua tại kỳ họp thứ 7, trong khoảng thời gian từ 20/0/5 đến 14/06/2019, cho phép công nhân thành lập tổ chức đại diện người lao động độc lập với Công đoàn của nhà nước, nhưng liệu có hy vọng thành công?
Sau đây là những lý do rất khó: Trước hết, theo Luật Công đoàn (số 12/2012/QH13) ngày 01/01/2013 thì:
“Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Đó là chức năng và nhiệm vụ của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN), một trong 6 Tổ chức tổ chức chính trị-xã hội của đảng duy nhất cầm quyền và được Ngân sách nhà nước nuôi ăn.
Các Tổ chức này còn có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, và Hội Cựu chiến binh.
Ngoài ra ngân sách nhà nước còn đài thọ kinh phí cho ngót 40 Tổ chức Hội đoàn, trong đó có Hội Nhà văn, Hội Nhà báo, Hội Sinh viên, Hội người cao tuổi v.v…
Theo Viện nghiên cứu kinh tế và chính sách (Vietnam Institute for Economic and Policy Research, VEPR) thì tổng số người hoạt động trong lĩnh vực tổ chức quần chúng công (có biên chế và không có biên chế), ước tính vào khoảng 338.000 người. Nhưng kết qủa đem lại vẫn còn là dấu hỏi lớn không ai ở Việt Nam có câu trả lời minh bạch
Theo tin của báo nhà nước, trong năm 2017, Tổ chức TLĐLĐVN đã được cấp khoảng 184,110 tỉ đồng. Trước đó, năm 2016 cũng được chi 273,770 tỉ đồng, đấy là chưa kể khoản tiền đóng hàng tháng của đoàn viên, tài sản khác gồm bất động sản, xe cộ, phương tiện làm việc và các phương pháp gây qũy khác.
Với một ngân sách lấy từ tiền thuế của dân chi cho Tổ chức công đoàn của đảng để khuynh đảo lực lượng công nhân, công và tư, nhằm phục vụ quyền lợi đảng thì có tổ chức lao động độc lập nào ngoài đảng có cơ may sống còn?
Thứ hai, mặc dù Điều 149 của Dự thảo viết rằng “Tổ chức đại diện của người lao động tại doanh nghiệp bao gồm công đoàn cơ sở được thành lập theo quy định của Luật Công đoàn; và tổ chức khác của người lao động (hay nghiệp đoàn độc lập)”, trên cơ sở tự nguyện, nhưng thực tế không dễ dàng chút nào, theo như tình trạng lao động và hoàn cảnh chính trị của người lao động hiện nay.
Lý do vì Tổ chức TLĐLĐVN, như từ xưa đến nay, được coi như đương nhiên nắm vai chủ chốt kiểm soát công nhân tại mỗi cơ sở lao động, đặc biệt tại các Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và Công ty lớn có đầu tư của nước ngoài.
Do đó, sự hình thành “một tổ chức khác của người lao động” tại cơ sở lao động để cạnh tranh với Công đoàn nhà nước là điều rất khó khăn, như “lấy trứng chọi với đá” !
Hãy đọc vài tỷ dụ:
Theo Điều 150 “dự thảo” thì chuyện “thành lập,gia nhập và hoạt động” sẽ dễ như ăn kẹo nếu đồng ý chui vào “lồng quyền lực” của TLĐLĐVN.
Nguyên văn:
1. Người lao động có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động trong tổ chức đại diện của người lao động tại doanh nghiệp.
2. Tổ chức đại diện của người lao động tại doanh nghiệp thành lập và hoạt động hợp pháp sau khi gia nhập hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam hoặc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nếu vào Tổ chức lao động nhà nước thì Khoản (a) viết rằng: “ Trường hợp gia nhập vào hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam thì sau khi hoàn thành việc gia nhập, công đoàn có thẩm quyền ra quyết định thành lập hoặc công nhận gửi cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh quyết định thành lập, quyết định công nhận, số lượng đoàn viên, danh sách Ban chấp hành Công đoàn cơ sở.”
Rõ ràng giản dị vì không phải chui bò qua các cửa ải. Ngược lại, nếu muốn đăng ký để đứng độc lập thì sẽ phài làm một trong hai phương án, tùy theo quyết định của Quốc hội:
Phương án 1: “Trường hợp đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập; thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký hoạt động thực hiện theo quy định của Chính phủ.”
Hay: Phương án 2: “Trường hợp đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì thực hiện theo quy định tại các điều: Điều 151, 152, 153, 154, 155, và 156 của Bộ luật này.
TRĂM MƯU NGÀN KẾ
Nếu có ai can đảm dám gồng mình tổ chức Nghiệp đòan bên ngoài Tổ chức lao động của đảng thì phải làm những việc sau:
Điều 151. Hồ sơ đăng ký nghiệp đoàn
1. Văn bản đề nghị đăng ký nghiệp đoàn do người đại diện của nghiệp đoàn ký và phải bao gồm các thông tin tối thiểu sau:
a) Tên nghiệp đoàn;
b) Địa chỉ nghiệp đoàn;
c) Họ, tên và địa chỉ của người đứng đầu nghiệp đoàn.
2. Điều lệ của nghiệp đoàn theo quy định tại Điều 153 của Bộ luật này.
3. Biên bản bầu cử và danh sách họ tên, địa chỉ của ban lãnh đạo được bầu của nghiệp đoàn.
4. Danh sách có chữ ký của những thành viên sáng lập và những người tự nguyện tham nghiệp đoàn theo quy định tại Khoản 1, Điều 152 của Bộ luật này.
5. Bản sao có chứng thực thẻ căn cước công dân hoặc giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện và các thành viên ban lãnh đạo nghiệp đoàn.
Điều 152. Điều kiện về số lượng đoàn viên tối thiểu, ban lãnh đạo và người đứng đầu của nghiệp đoàn để được đăng ký
1. Tại thời điểm đăng ký, nghiệp đoàn phải có tối thiểu 20 đoàn viên là người lao động làm việc tại doanh nghiệp.
2. Thành viên Ban lãnh đạo được bầu của nghiệp đoàn là người lao động Việt Nam.
3. Thành viên Ban lãnh đạo được bầu của nghiệp đoàn không phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; các tội xâm phạm sở hữu theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Điều 153. Điều lệ của nghiệp đoàn
Điều lệ của nghiệp đoàn phải các nội dung chủ yếu sau đây:
1. Tên, địa chỉ của nghiệp đoàn.
2. Tôn chỉ, mục đích và phạm vi hoạt động của nghiệp đoàn.
Tôn chỉ, mục đích và phạm vi hoạt động của nghiệp đoàn phải đáp ứng những yêu cầu sau:
a) Tôn chỉ, mục đích và phạm vi hoạt động của nghiệp đoàn là nhằm bảo vệ và thúc đẩy các quyền và lợi ích của đoàn viên trong quan hệ lao động tại doanh nghiệp; cùng với người sử dụng lao động giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
b) Nghiệp đoàn đăng ký theo quy định của Bộ luật này không được là tổ chức có mục đích chính trị hoặc chỉ thuần túy là tổ chức nhằm thực hiện các hoạt động xã hội hoặc các hoạt động hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên.
3. Điều kiện, thủ tục gia nhập và ra khỏi nghiệp đoàn của người lao động.
Nghiệp đoàn không được đồng thời bao gồm đoàn viên là người lao động thông thường và người lao động là người đại diện cho lợi ích của người sử dụng lao động. Người lao động là người đại diện cho lợi ích của người sử dụng lao động là người có quyền tham gia vào quá trình ra quyết định liên quan đến việc tuyển dụng, kỷ luật lao động, thuyên chuyển, chấm dứt hợp đồng lao động và điều kiện lao động của người lao động.
4. Cơ cấu tổ chức, nhiệm kỳ, người đại diện của nghiệp đoàn.
Người đại diện của nghiệp đoàn là người đứng đầu nghiệp đoàn hoặc người khác được bầu theo quy định của điều lệ của nghiệp đoàn.
5. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động và thể thức thông qua quyết định của nghiệp đoàn.
Tổ chức và hoạt động của nghiệp đoàn thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và điều lệ;
b) Tự nguyện, tự quản;
c) Dân chủ, minh bạch.
6. Những nội dung sau đây phải do đoàn viên quyết định theo đa số.
a) Thông qua, sửa đổi, bổ sung điều lệ của nghiệp đoàn;
b) Bầu cử, miễn nhiệm người đứng đầu và ban lãnh đạo của nghiệp đoàn;
c) Hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, đổi tên, giải thể nghiệp đoàn.
7. Đoàn phí, nguồn tài sản, tài chính và việc quản lý, sử dụng tài sản, tài chính của nghiệp đoàn.
Việc thu, chi tài chính của nghiệp đoàn phải được theo dõi, lưu trữ và định kỳ hàng năm công khai cho đoàn viên nghiệp đoàn.
8. Kiến nghị và giải quyết kiến nghị của đoàn viên trong nội bộ nghiệp đoàn.
9. Các nội dung khác không trái với quy định của pháp luật.
Điều 154. Trình tự, thủ tục đăng ký nghiệp đoàn
1. Người đại diện của nghiệp đoàn gửi hồ sơ đăng ký theo quy định tại Bộ luật này cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký nghiệp đoàn. Các tài liệu trong hồ sơ đăng ký nghiệp đoàn phải được lập trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập đến ngày nộp hồ sơ đăng ký.
2. Trong trường hợp hồ sơ đăng ký thiếu các thông tin, tài liệu theo quy định tại Điều 151 của Bộ luật này thì cơ quan có thẩm quyền đăng ký thông báo cho người nộp hồ sơ đăng ký trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký.
3. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền đăng ký phải cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động. Trường hợp không cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
4. Cơ quan có thẩm quyền cấp đăng ký từ chối đăng ký trong các trường hợp sau:
a) Tài liệu và nội dung hồ sơ đăng ký không theo quy định tại các Điều 151, 152, 153 của Bộ luật này.
b) Có căn cứ cho rằng tổ chức của người lao động có hành vi gian dối trong quá trình thành lập tổ chức.
c) Tổ chức có nguồn tài chính không phù hợp với quy định của pháp luật.
Với những khó khăn và ràng buộc nêu trên, liệu có “người công nhân anh hùng” nào có gan làm Phù Đổng Thiên vương trong thời đại hễ mở mồm ra là “thù địch, phản động” dưới thời Cộng sản hay không?
PHAI NHẠT CHÍNH TRỊ
Đó cũng là lý do giải thích tại sao hồi năm 2018, khi chưa được Quốc hội trao chức Chủ tịch nước, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ta thán rằng: “Hiện nay xã hội vẫn băn khoăn trước tình trạng một bộ phận công nhân, người lao động có biểu hiện phai nhạt về chính trị, chỉ lo nhiều đến những vấn đề lợi ích kinh tế, đời sống cụ thể trước mắt, ít quan tâm đến những vấn đề cơ bản, lâu dài, có tính chiến lược như ý thức giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, vai trò, sứ mệnh lịch sử, trách nhiệm của giai cấp công nhân…; một số bị các thế lực xấu, thù địch tác động, lôi kéo, kích động, đã có những việc làm sai trái, gây mất ổn định an ninh, trật tự, an toàn xã hội.”
Ông Trọng đã hờn dỗi như thế trong bài phát biểu tại Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ 12, nhiệm kỳ 2018- 2023, tổ chức tại Hà Nội ngày 25/09/2018.
Ông còn chỉ trích: “Chất lượng đội ngũ công nhân nước ta đang có những dấu hiệu hụt hẫng và bất cập. Xu hướng phân hoá trong đội ngũ công nhân làm cho nhiệm vụ tập hợp lực lượng và nâng cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn thể xã hội trở nên khó khăn.”
Trước tình trạng xuống cấp này,Tổng Bí thư đảng CSVN đã chỉ thị Công đoàn phải:
1.- “Chú trọng nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị cho công nhân, viên chức, người lao động. Tập trung tuyên truyền, giáo dục, giúp công nhân, viên chức, người lao động nhận thức sâu sắc hơn nữa về giai cấp, về Đảng, về tổ chức công đoàn…”
2.- “Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn công tác. Nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp tổ chức cho cán bộ, đoàn viên học tập, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị.
3.– “Đặc biệt, phải kiên trì, sáng tạo và thực chất trong việc tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm trước của cán bộ công đoàn các cấp, đồng thời coi trọng việc xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến…”
4.– “Chú trọng giáo dục giữ vững bản lĩnh, có ý thức nhạy bén chính trị, tăng sức đề kháng trước những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của xã hội và sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tuyệt đối không để các thế lực thù địch lợi dụng lòng yêu nước chân chính của công nhân, người lao động để kích động, lôi kéo biểu tình, tụ tập gây rối, làm mất an ninh, trật tự, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.”
5.– “Các cấp công đoàn phải tích cực đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; góp ý với đảng viên, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ với hình thức phù hợp, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng Đảng.”
Nói hăng như thế khi ông chưa bị “đột quỵ” ở Kiên Giang ngày 14/04/2019 là điều dễ hiểu. Nhưng liệu Tổ chức Tổng Liên đoàn Lao động đã chận đứng được trận cuồng phong chán đảng, rã đoàn của các thế hệ đảng viên chưa, hay họ sẽ nát bét thêm khi có Luật Lao động mới?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét