Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Sau
Cách mạng Bolshevik tháng 11/1917, nhà nước Liên Xô đã trở thành một
ngọn hải đăng đầy hy vọng cho cánh tả, và Moskva biến thành thánh
địa hành hương. Đó là bốn thập niên trước khi phép thuật biến mất, và
thế giới vẫn đang chờ đợi điều sẽ thay thế nó.
Thật
dễ dàng để xác định nguyên do hấp dẫn ban đầu. Năm 1917, hàng loạt
người lính đã chết như ngả rạ trên những chiến trường đẫm máu ở
Pháp và Bỉ. Nhiều người trong số họ là công nhân đang làm việc đã phải
chấp nhận hy sinh cho những đất nước nơi họ không có quyền bỏ phiếu.
Những người này ra đi để lại gia đình trong cảnh khốn cùng, trong
khi những kẻ giàu vẫn tiếp tục giàu hơn.
Vì
thế thông điệp của Vladimir Lenin đã tìm được những khán giả
sẵn lòng nghe theo. Đảng Cộng sản hình thành nhanh chóng ở các quốc
gia đã tham gia Thế chiến. Một người thợ rèn nồi hơi tên là Harry
Pollitt, sau này trở thành lãnh đạo Đảng Cộng sản Anh, đã tóm tắt lý do:
“Những người lao động như tôi và tất cả những người xung quanh tôi đã
giành được quyền lực, đã đánh bại tầng lớp ông chủ.”
Những
người như Pollitt càng thích nhà nước Liên Xô nhiều hơn khi những
người giàu có và quyền lực tấn công nó không tiếc lời: “Về phía Đông,
nằm phủ phục, với một thất bại nặng nề, là nước Nga khổng lồ –
không phải là một nước Nga bị thương, mà là một nước Nga đang viêm
nhiễm, một nước Nga có khả năng lây lan bệnh tật”- đó là lời
tuyên bố của Winston Churchill, người coi những ý tưởng cách mạng là
“các học thuyết chính trị phá huỷ sức khoẻ và thậm chí cả linh hồn của
các quốc gia.”
Liên
Xô có rất nhiều những người bạn quốc tế và họ đủ tích cực để Lenin
có thể gieo rắc hy vọng cho các quốc gia dựa trên mô hình Liên Xô trên
khắp thế giới. Vì vậy, ông đã sáng lập nên Quốc tế Cộng sản, hay
Comintern, đồng thời quan tâm đến việc hình thành và phát triển các
đảng xã hội cách mạng ở khắp mọi nơi, bao gồm cả Đảng Cộng sản Mỹ, được
thành lập vào khoảng năm 1919, cũng như các Đảng Cộng sản Anh và Pháp
thành lập vào năm sau, và nhiều đảng khác.
Moskva
trở thành một thánh địa cho những người Cộng sản ở nước ngoài: một nơi
ẩn náu khi hiểm nguy xuất hiện, nơi để kiếm tìm nguồn cảm hứng, hỗ
trợ và tài chính. Năm 1926, Trường Quốc tế Lenin được thành lập tại
Moskva để đào tạo những người cộng sản nước ngoài. Theo một nghiên cứu,
370 người Đức và 320 người Czech đã học ở đó trong 12 năm ngôi trường
tồn tại, cũng như hơn 200 người từ mỗi nước Pháp, Ba Lan, Ý, Mỹ và
Trung Quốc, và hơn 100 người từ mỗi nước Áo, Anh, Tây Ban Nha và Phần
Lan.
Các
sinh viên của trường Lenin và các nhà lãnh đạo cộng sản nước ngoài đến
thăm Liên Xô ở trong Khách sạn Lux, một toà nhà tuy đơn giản nhưng vẫn
đầy đủ tiện nghi ở trung tâm thành phố. Ở đó, họ đã ăn, ngủ và ngấu
nghiến “men say” đam mê cách mạng – đúng theo nghĩa đen, dưới dạng
vodka Nga và rượu mạnh từ Gruzia.
Các
thành viên của Comintern đã được gửi đi khắp thế giới, nhưng họ đã
không tồn tại được lâu. Một khi các hoạt động của họ bị cảnh sát
phát hiện, họ sẽ bị trục xuất trở lại Nga hoặc tống vào tù. Tại
Anh, đặc vụ đáng kể duy nhất đã qua mặt được cảnh sát trong một
khoảng thời gian dài là Max Petrovsky, phái viên của Moskva tại đảng
Cộng sản Anh và Pháp từ năm 1924 đến năm 1929.
Ông
ra đời ở Ukraine hoặc Nga với tên gọi David Lipetz hoặc Max Goldfarb,
khoảng năm 1883. Rất hiếm những chi tiết đáng tin cậy vì ông sống cuộc
đời trưởng thành của mình dưới một loạt tên giả: thứ nhất, để trốn
tránh cảnh sát Sa hoàng khi còn là một thành viên của Hiệp hội các
nhà Xã hội Chủ nghĩa Do Thái (Jewish Socialist Bund), sau đó là để
lẩn tránh giới chức Mỹ trong khoảng thời gian ngay trước cuộc cách
mạng năm 1917, khi ông giúp điều hành tờ nhật báo của nhóm người Do
Thái theo chủ nghĩa xã hội ở Mỹ – The Jewish Daily Forward.
Tại
Anh, dưới cái tên giả Bennett (hay Bennet), ông đã phát ngôn với uy
quyền từ Moskva. Theo Ivy Litvinov, bà vợ người Anh của một nhà ngoại
giao Liên Xô tên là Maxim Litvinov, Petrovsky là “người đàn ông xấu xí
nhất mà bạn từng nhìn thấy, nhưng lại rất thu hút.”
Trong
khoảng thời gian ông đến London, năm 1920, một thành viên khác của
Comintern tên là Rose Cohen đã trở lại Anh, sau khi đi khắp thế giới
để phân phối quỹ của đảng. Bà và Petrovsky đã yêu nhau. Cohen, xuất
thân từ một gia đình Do Thái nghèo ở khu East End của London, là một
phụ nữ sôi nổi, thông minh, có học thức và rất xinh đẹp, với đôi
mắt nâu và mái tóc đen dài.
Petrovsky
và Cohen kết hôn và chuyển đến Moskva khoảng năm 1929, nơi con trai
Alyosha của họ được sinh ra. Sau khi Lenin qua đời vào năm 1924, Joseph
Stalin đã đảm nhận vai trò lãnh đạo. Suốt một thời gian, mọi chuyện
đều diễn ra tốt đẹp: Max có được một công việc quan trọng trong chính
phủ, và Rose trở thành biên tập viên nước ngoài của một tờ báo tiếng Anh
mới – The Moskva Daily News.
Khó
khăn ập đến với họ vào năm 1937. Bị cho là có cảm tình với Leon
Trotsky đang lưu vong, Petrovsky và Cohen đã bị bắt. Alyosha đã được gửi
đến một trại mồ côi và không bao giờ còn thấy bố mẹ anh nữa. Họ đã sớm
bị xử bắn.
Bởi
chiến dịch thanh trừng của Stalin, thật khó để xem Moskva như ngọn hải
đăng của hy vọng thay vì một kẻ áp bức tàn bạo. Tuy nhiên, nhiều người
vẫn giữ hi vọng vào Moskva vì thế giới đã trở nên ảm đạm vào năm 1937.
Hitler điều hành nước Đức, Mussolini cai trị nước Ý, và phe phát xít đã
chiến thắng trong Nội chiến Tây Ban Nha. Trong mắt những người cộng sản,
Anh và Mỹ, nơi diễn ra Đại Suy thoái với tất cả những đau khổ mà nó
gây ra, như đang trải qua cơn đau cuối cùng trước cái chết của chủ nghĩa
tư bản.
Như
Harry Pollitt từng nhận định, những người đã đánh bại chế độ chuyên
chế ở Nga “không bao giờ có thể, và sẽ không bao giờ có thể, làm điều
gì tai hại cho giai cấp công nhân.” Pollitt đã xem Petrovsky và Cohen là
bạn bè của ông, nhưng ông hiểu những sai lầm vẫn diễn ra. Bạn không
thể làm món trứng tráng nếu không chấp nhận đập vỡ vỏ trứng.
Vì
vậy, các thành viên Comintern và các đồng chí trung thành như những
sinh viên tốt nghiệp của Trường Quốc tế Lenin đã học cách săn lùng những
người theo chủ nghĩa Trotsky và những người vô chính phủ, và chỉ nghĩ
đến một “Thế Giới Mới Dũng Cảm”[1] sẽ ra đời sau tất cả những đau khổ này.
Nhà
lãnh đạo Cộng sản Pháp, André Marty, đã sang Tây Ban Nha như một sĩ
quan chính trị tại các Lữ đoàn Quốc tế. Ở đó, ông lạnh lùng ra lệnh bắn
chết nhiều người vì họ bị cho là đồng cảm với Trotsky. Marty và
những kẻ khác gọi những người bị hành quyết này là “kẻ thù của nhân
dân,” một thuật ngữ mà ngày nay đã tìm thấy sự cộng hưởng mới thật
đáng sợ.
Chân dung Marty đã được khắc họa không thể nào quên trong For Whom the Bell Tolls (Chuông
Nguyện Hồn Ai) của Ernest Hemingway (trong một số ấn bản được ngụy
trang thành Massart): “Rất nhiều người sau này đã nguyền rủa ông ta.
Ông luôn luôn lấy làm tiếc cho họ trong thân phận con người. Ông luôn tự
nhủ như vậy và đó là một trong những ý tưởng chân thực cuối cùng
trong số những gì còn lại là của ông.”
Nhà
cộng sản người Bulgaria Georgi Dimitrov đã biết một số bí mật đen tối
nhất của Liên Xô. Bị kết án tử hình năm 1923 vì các hoạt động chính trị
ở quê nhà, ông đã trốn sang Nam Tư, sau đó định cư tại Đức. Ở đó, vào
năm 1933, ông bị Đức Quốc xã bắt vì bị cáo buộc đồng lõa trong vụ hỏa
hoạn ở Tòa nhà Quốc hội Reichstag, điều mà Hitler đã dùng làm cớ để
đình chỉ chính quyền dân chủ nghị viện. Với sự can đảm phi thường trong
hoàn cảnh ấy, Dimitrov đã chọn tự biện hộ cho mình tại phiên tòa.
“Tôi
đang bảo vệ bản thân mình, một người cộng sản bị cáo buộc,” ông nói
trước vành móng ngựa. “Tôi đang bảo vệ danh dự chính trị của tôi,
danh dự của một nhà cách mạng. Tôi đang bảo vệ ý thức hệ cộng sản của
tôi, những lý tưởng của tôi.”
Ông
cuối cùng đã được tha bổng vì thiếu bằng chứng, và chuyển tới sống ở
Paris, rồi đến Moskva. Ở đó, ông được xem như một anh hùng và được
bổ nhiệm làm thư ký của Comintern năm 1935. Năm 1944, ông trở lại
Bulgaria sau hai thập niên lưu vong để lãnh đạo Đảng Cộng sản của nước
này. Năm 1946, ông trở thành Thủ tướng.
Dimitrov,
cũng giống như Marty, không phải là một kẻ lắm mưu nhiều kế, leo
qua xác chết của những người vô tội để lên nắm quyền. Ông chỉ nghĩ rằng
phần thưởng lớn lao đó xứng đáng với những khó khăn và bất công ông
trải qua dọc đường.
Các
đảng cộng sản đã phát triển mạnh mẽ trong Thế chiến II nhờ liên minh
chống chủ nghĩa phát xít. Khi Stalin giải tán Comintern năm 1943, các
đảng cộng sản nước ngoài dường như bước sang thời đại mới, khi họ hành
động độc lập, tự quyết định và không còn là công cụ trong chính sách đối
ngoại của Liên Xô nữa. Nhưng một khi chiến tranh kết thúc, Stalin đã
tái áp đặt sự kiểm soát của mình.
Năm
1947, ông thành lập Cục Thông tin Cộng sản, hay Cominform, nhằm truyền
tải các quyết định của Moskva cho các đảng cộng sản trên toàn thế giới.
Trong trường hợp của Đảng Cộng sản Anh, Stalin đã can thiệp trực tiếp
vào việc soạn thảo bản tuyên ngôn hậu chiến.
Sự
khác biệt giữa Comintern và Cominform là Cominform chỉ đơn thuần truyền
tải các quyết định. Không còn cơ sở nào để bất cứ ai bên ngoài Kremlin
có thể tham gia vào việc hình thành các quyết định đó nữa. Bài kiểm
tra đầu tiên cho cơ quan mới này diễn ra vào năm 1948, khi Moskva quyết
định rằng nhà lãnh đạo có tư tưởng độc lập của Nam Tư là Nguyên soái
Tito đã không còn là một lãnh tụ cộng sản anh hùng nữa, mà là một kẻ
phản bội. Các đảng cộng sản nước ngoài nhanh chóng lựa chọn lập trường
mới này.
Sau
cái chết của Stalin vào năm 1953, Nikita Khrushchev thắng thế trong
cuộc đấu tranh giành quyền lực. Trong một phiên họp bí mật của Đại
hội Đảng năm 1956 – bí mật vì các phóng viên và những người cộng sản
nước ngoài không được tham dự – Khrushchev đã lột trần sự khủng bố mà
Stalin gây ra cho Liên Xô trong hơn ba thập niên qua.
Cuối
cùng, ánh sáng của ngọn hải đăng Moskva đã lụi tàn. Thế hệ mới không
thể sản sinh ra những người như Pollitt, Dimitrov, Petrovsky và Cohen,
những người trung thành mạo hiểm tất cả vì điều họ tin là một lý
tưởng tuyệt vời và công bằng. Chắc chắn, các đảng cộng sản khắp thế
giới vẫn giữ được lòng trung thành của những người “cộng sản gộc” và
kết nạp được thêm một số thanh niên theo chủ nghĩa lý tưởng, nhưng năm
1956 là một bước ngoặt, và Liên Xô đã trở thành một lý tưởng bị hoen ố
không thể phục hồi. Từ ngày ấy, những người cộng sản đã chia thành
những người ủng hộ lẫn chống lại Moskva.
Francis
Beckett là tác giả của cuốn “Enemy Within: The Rise and Fall of the
British Communist Party” và “Stalin’s British Victims.”
—————–
[1] Brave
New World (tạm dịch là Thế Giới Mới Dũng Cảm) là từ chỉ một giai
đoạn mới tràn đầy hy vọng trong lịch sử, phát sinh từ những thay đổi
lớn trong xã hội. Từ này được lấy từ tựa đề tiểu thuyết năm
1932 của Aldous Huxley.
Nguồn: Francis Beckett, “How Moskva Lost Its Luster as the School of Revolution”, The New York Times, 20/03/2017.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét