Xây dựng và phát triển hạ tầng chiếm tỉ trọng đáng kể trong GDP của Việt Nam-Getty Images
Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế Tổng sản lượng quốc nội (GDP) là phạm trù kinh tế được hầu hết các quốc gia trên thế giới sử dụng. Nó luôn được các nhà kinh tế hoàn thiện trong quá trình áp dụng thực tế. Chính trị hoá GDP là vấn đề phức tạp. Các chính khách, hoặc bằng kỹ thuật hoặc cố ý, có thể làm sai lệch số liệu có lợi cho mục đích cầm quyền. Ngoài ra, những nhược điểm vốn có của phạm trù này, dù được chỉ ra về mặt lý thuyết và luôn được hoàn thiện trong thực tế, nhưng có vẻ tiếp tục là cơ sở thúc đẩy chính trị hoá.
Đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ tập trung sang thị trường, trong đó có Việt Nam, vấn đề còn phức tạp hơn, khi GDP còn là chỉ báo cho tính chính danh của chế độ.
Việt Nam đang đánh giá lại GDP, mới có kết quả sơ bộ, nhưng đã gây tranh luận nóng. Liệu tác động có thể là 'lợi bất cập hại'? Liệu có thể hạn chế việc chính trị hoá chỉ tiêu này?
Tác động 'lợi bất cập hại'
Mới đây, trong cuộc họp Giao ban báo chí ngày 27/8/2019, Tổng cục Thống kê cho biết quy mô GDP đánh giá lại bình quân giai đoạn 2010-2017 tăng thêm 25,4%/năm so với số liệu đã từng công bố chính thức.
Nghĩa là GDP năm 2017 tăng từ 220 tỷ USD lên 275 tỷ USD. Như vậy, ước tính đến nửa đầu năm 2019, quy mô nền kinh tế của Việt Nam đã vượt con số 300 tỷ USD và GDP bình quân đầu người nhờ đó tăng lên ngưỡng 3.000 USD, thay vì 2.590 USD, năng suất lao động cũng tăng cao tương ứng với tỷ lệ tăng GDP khi số lao động không đổi.
Cơ sở pháp lý của việc đánh giá lại GDP là Quyết định số 715/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ.
Trước đó, ngày 16/8/2019 ông Tổng cục trưởng đã cho biết rằng với phương pháp tính hiện tại phù hợp với thông lệ quốc tế việc đánh giá lại quy mô GDP lần này được bổ sung thông tin từ Tổng Điều tra, chủ yếu là từ cơ quan thuế, trong đó bao quát thêm khoảng 76000 doanh nghiệp trước đây chưa được tính.
Theo tôi, không nên tuyên truyền đơn giản đó là 'một việc làm bình thường', mà cần coi là lần đầu tiên 'đánh giá lại' nên cần thận trọng tính đến tác động không nhỏ và nhiều mặt khi tính toán và chính thức công bố số liệu GDP 'mới'.
Trước hết, số liệu này 'kích hoạt' bệnh thành tích của nhiều lãnh đạo trung ương và địa phương, vốn đã và đang là 'dấu ấn' trong các báo cáo tình hình kinh tế xã hội hàng năm, nhiệm kỳ. Theo đó, GDP báo cáo của các tỉnh, thành phố luôn cao hơn bình quân cả nước trong nhiều năm, đến hiện nay chưa được khắc phục.
Về mặt chuyên môn, giới chuyên gia đã lên tiếng lo ngại 'dư địa lớn hơn' của Chính phủ lớn trong điều hành chính sách, nếu bị lạm dụng có thể dẫn tới mất cân đối cho nền kinh tế.
Đó là việc vay nợ có thể tăng lên trong điều kiện nợ công, nợ doanh nghiệp đang ở mức cao, khó trả và thu ngân sách hiện nay phần lớn để trả nợ, xoá nợ xấu.
Chẳng hạn, nợ công hiện ở ngưỡng 58,4% GDP sẽ điều chỉnh về dưới 50%. Nếu khống chế tỷ lệ nợ bằng 60% GDP, thì dư địa sẽ là rất lớn.
Việc chi tiêu thường xuyên từ ngân sách, cho hệ thống chính trị cồng kềnh, trong đó bộ máy hành chính, đang rất khó tinh giản. Ngoài ra, đầu tư công có thể được 'khuyến khích mở rộng' trong điều kiện hiệu quả còn thấp và tham nhũng chưa thể ngăn chặn. Tỷ lệ đóng góp với các tổ chức quốc tế của Việt Nam sẽ tăng lên trong khi nguồn thu không đổi…
Sẽ chưa đầy đủ, nếu chưa tính đến 'phản ứng' của các cơ quan chức năng khi chia sẻ số liệu và tâm lý, thói quen, việc điều chỉnh sử dụng chúng trong nghiên cứu của giới chuyên môn và các địa phương.
Rõ ràng việc sử dụng các số liệu này để hoạch định chính sách trung và dài hạn trong tương lai sẽ gặp khó khăn khi GDP được đánh giá lại tăng lên hơn 25%!
Có thể liệt kê nhiều tác động 'lợi bất cập hại' khác.
Niềm tin thay vì bệnh thành tích
Cán bộ lãnh đạo của bộ máy hiện hành được 'khích lệ' bởi bệnh thành tích vì sự thăng tiến và đặc quyền, đặc lợi. Tuy nhiên, nếu đặt lợi ích vì sự thịnh vượng của đất nước và nhân dân thì cải tổ nói chung và trong 'trường hợp này' nói riêng cần hướng tới lấy lại niềm tin thay vì bệnh thành tích.
Bởi vậy, các khuyến nghị chủ yếu cho tình hình, như phân tích ở trên, có thể là:
- Thứ nhất, cần đề cao vai trò độc lập của cơ quan Thống kê, không chỉ bởi vì năng lực tính toán số liệu được nâng lên tạo cơ sở niềm tin cho các hoạt động điều hành hay nghiên cứu khác, mà còn đảm bảo 'không chịu sức ép' nào từ cấp trên về việc 'bóp méo' số liệu hợp với màu sắc quyền lực chính trị. Trong điều kiện Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện, và lập pháp, tư pháp và hành pháp chỉ là các cấu thành phụ thuộc, chỉ là phân công, phân nhiệm, cũng cần có sự lựa chọn quá độ phù hợp. Chẳng hạn, cơ quan thống kê nên để trực thuộc Quốc hội, thay vì Chính phủ như hiện nay.
- Thứ hai, Quốc hội cần được tăng cường năng lực làm luật và vai trò giám sát độc lập đối với Chính phủ trong việc thực hiện các chính sách bằng các nghị quyết về điều chỉnh các chỉ tiêu pháp lệnh hiện hành liên quan, như tỷ lệ so với GDP, để đảm bảo các cân đối vĩ mô cho nền kinh tế. Ngoài ra, cần mở rộng sự tham gia các ý của chuyên gia, các tổ chức nghiên cứu độc lập, các doanh nghiệp và các tổ chức Mặt trận hay tổ chức nước ngoài có uy tín như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế Giới.
Từ khi GDP trở thành chỉ tiêu đo lường quan trọng, nó luôn được hoàn thiện bởi các nhà kinh tế vì mục tiêu ứng dụng thực tế. Họ không mệt mỏi tìm kiếm các mô hình để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế.
Từ Mô hình D. Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản xuất nông nghiệp là nguồn gốc của tăng trưởng, đến Mô hình R. Solow, người đoạt giải Nobel kinh tế năm 1987, xác định rằng việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng và một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn.
Và, gần đây, Paul M. Romer, được thưởng giải Nobel kinh tế năm 2018, đề xuất và chứng minh ý tưởng cho rằng chính bản thân tăng trưởng sinh ra tiến bộ kĩ thuật (chứ không phải ngược lại), có nghĩa rằng nguồn gốc của tăng trưởng là 'nội sinh' và tăng trưởng phụ thuộc vào vận tốc đã đạt được.
Cần lưu ý rằng các nhà kinh tế nổi tiếng này và các nghiên cứu của họ thuộc về thế giới các nước tư bản phát triển và nền kinh tế thị trường.
Các mô hình tăng trưởng, 'sâu hay nông' đều được giới thiệu trong các cơ sở nghiên cứu và đào tạo chủ yếu ở Việt Nam. Đáng tiếc, việc vận dụng chúng trong nền kinh tế chuyển đổi sang thị trường còn để lại nhiều khoảng trống để đề xuất các kiến nghị cho việc hoạch định chính sách.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét