Prashanth Parameswaran
Hôm thứ Năm, xuất hiện
thông tin nói rằng cuộc họp giữa Bộ quốc phòng Trung Quốc và Việt Nam đã bất ngờ
bị hủy bỏ - người ta nói là do những bất đồng về Biển Đông chứ không phải những
vấn đề hậu cần như Bộ quốc phòng Trung Quốc tuyên bố. Nếu đúng, thì đây cũng chẳng
có gì đáng ngạc nhiên, vì trước đó đã từng có những vụ xung đột quân sự giữa Bắc
Kinh và Hà Nội. Nhưng rộng hơn, nó là lời cảnh báo đối với cộng đồng quốc tế rằng,
mặc dù Trung Quốc tìm cách hạ thấp ý nghĩa của những vấn đề ở Biển Đông, hành động
của Bắc Kinh có thể làm cho căng thẳng leo thang một cách nhanh chóng, vì bất kỳ
lý do nào đó.
Sự cố xảy ra khi Trung
Quốc và Việt Nam tổ chức chương trình gặp gỡ hữu nghị quốc phòng biên giới lần
thứ tư, dự kiến được tổ chức ở cả hai nước trong các ngày 20-22 tháng 6. Mặc
dù công việc chuẩn bị đã được tiến hành theo đúng kế hoạch, Phó Chủ tịch Quân ủy
Trung ương Trung Quốc, Phạm Trường Long (Fan Changlong), đã gặp các quan chức
cao cấp của Việt Nam và hai bên đã nói về những tiến bộ trong thời gian gần đây,
như thỏa thuận về đào tạo đã được kí kết; ngày 21 tháng 6, Bộ Quốc phòng Trung
Quốc tuyên bố với các phương tiện truyền thông nhà nước rằng Phạm cắt ngắn chuyến
thăm và Bắc Kinh quyết định hủy bỏ cuộc họp do “lịch làm việc”. Các hãng tin
khác nhanh chóng suy đoán rằng, đây có thể là do những bất đồng về Biển Đông.
Nếu đúng như thế thì
đây cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên. Xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc
ở Biển Đông không phải là mới. Trong số bốn nước ở Đông Nam Á đòi chủ quyền ở
Biển Đông - Brunei, Malaysia, Philippines - Việt Nam là nước tranh cãi lâu nhất
và cũng là nước bị Trung Quốc áp lực mạnh nhất, quân đội Trung Quốc mới giành
được quyền kiểm soát Hoàng Sa từ tay Hà Nội vào năm 1974. Đối với Việt Nam, những
tranh chấp này chỉ là một phần của vấn đề quan hệ với lân bang khổng lồ phương
Bắc đã kéo dài suốt nhiều thế kỷ. Trung Quốc đã chiếm đóng Việt Nam trong suốt gần
1.000 năm, từ thế kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ X sau Công nguyên.
Trong suốt nhiều năm,
Việt Nam đã trở thành nước có tiềm lực quân sự mạnh nhất trong bốn nước đòi chủ
quyền ở Biển Đông, có chân trong Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), và
cùng với Philippines (cho đến gần đây), có xu hướng là những nước trong khu vực
lên tiếng mạnh mẽ nhất về vấn đề này. Mặc dù người ta cảm nhận được quyết tâm của
Trung Quốc, ví dụ gần đây: Bắc Kinh quyết định đặt giàn khoan dầu trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) vào mùa hè năm 2014 đã gây ra cuộc khủng hoảng
trong quan hệ giữa hai nước. Tuy nhiên, hai bên vẫn tiếp tục tiến hành một số
biện pháp nhằm xây dựng lòng tin, trong đó có lĩnh vực quốc phòng thủ, cuộc gặp
gỡ quốc phòng hàng năm trên khu vực biên giới.
Cuộc xung đột này có thể
là kết quả của những căng thẳng đã được kiềm chế, nhưng cuối cùng cũng đã bùng
nổ. Quan điểm về Biển Đông của Philippines dưới thời Tổng thống Rodrigo Duterte
không còn vững mạnh như trước, thực chất, Việt Nam đã trở thành nước duy nhất ở
Đông Nam Á tham gia vào những vụ tranh chấp này. Điều này, đương nhiên làm cho Hà
Nội cảm nhận đựôc tầm quan trọng của việc tăng cường quan hệ với những nước như
Mỹ và Nhật Bản, và đấy là những việc mà nước này đang làm, mặc dù các quan chức
của Việt Nam đã tiếp tục điều chỉnh một cách cẩn thận với những cam kết với
Trung Quốc.
Nhưng đối với Trung Quốc
- đang tìm cách tận dụng sự suy giảm động lực của ASEAN đối với vấn đề Biển
Đông, cũng như cảm nhận của họ về nước Mỹ đang bị phân tâm - đây là thời điểm
thuận lợi cho việc gây sức ép lên từng nước riêng lẻ - dù đấy có là Việt Nam, một
trong những nước đòi chủ quyền hay Singapore, quốc gia đang đóng vai trò điều phối
viên trong quan hệ ASEAN - Trung Quốc - về những họat động cụ thể và những liên
kết đang có dưới chiêu bài giảm căng thẳng. Các quan chức ASEAN nói rằng đó
chính là những việc mà một số quan chức Trung Quốc đang làm, thậm chí các quan
chức Trung Quốc còn cảnh báo họ về cái gọi là “những hành động không có tính
xây dựng”. Carl Thayer, một chuyên gia về Việt Nam, nói với đài Á Châu Tự do rằng,
Trung Quốc cũng áp lực Việt Nam, đòi Việt Nam ngưng hoạt động thăm dò dầu khi trong
Bãi Tư Chính (Vanguard Bank).
Những quan điểm trái
ngược nhau giữa Bắc Kinh và Hà Nội chắc chắn sẽ dẫn tới xung đột. Thayer nhận
xét rằng, nếu không được xử lý một cách đúng đắn, căng thẳng có thể bùng phát,
việc Trung Quốc đang triển khai tàu chiến và máy bay tới khu vực làm gia tăng
khả năng xảy ra đụng độ quân sự. Nhưng rộng hơn nữa, đối với phần còn lại của cộng
đồng quốc tế, sự kiện này là lời cảnh báo khác rằng, mặc cho những nỗ lực của
Trung Quốc nhằm làm giảm nhẹ vấn đề Biển Đông, chính những hành động mà Bắc
Kinh đang làm nhằm đưa tình trạng xuống thang lại làm cho nó leo thang sớm hơn là
người ta nghĩ.
Điều này cũng phù hợp với
cách hành xử thô bạo hơn ở Biển Đông của Trung Quốc, mà tôi từng gọi là “sự quyết
đoán ngày càng gia tăng”, với những hành động quyến rũ hay tín hiệu về gió yên
biển lặng được Bắc Kinh phát ra, rồi sau đó là một đợt áp lực mới. Trong bối cảnh
quan hệ Trung-Việt như thế, cần nhớ rằng chỉ bảy tháng sau khi tung ra chiến lược
mới đối với quan hệ ASEAN-Trung Quốc, như là một phần của cuộc tấn công vào lòng
người ở Đông Nam Á, được nhiều người hoan nghênh, thì mùa hè năm 2014, Bắc Kinh
đã đưa giàn khoan dầu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Mặc dù sự cố này
chưa đến mức nghiêm trọng lắm, những người
đang tìm kiếm hòa bình ở Biển Đông – nền hòa bình chưa bao giờ kéo dài được lâu
– nên dừng lại và suy nghĩ một cách thật nghiêm túc.
--------------------------
Prashanth Parameswaran
là phó tổng biên tập của trang Diplomat, làm việc ở Washington, D.C.. Ông thường
viết về Đông Nam Á, vấn đề an ninh châu Á và chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu
vực Châu Á-Thái Bình Dương. Ông là phó tiến sĩ ở Fletcher School of Law and Diplomacy at Tufts
University.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét