Bộ đội Bắc Việt chiếm Sài Gòn, ngày 30/4/1975. Ảnh: Herve
GLOAGUEN/GettyImages.
Có đủ căn cứ và cơ sở để cho rằng tồn tại hai quốc gia tách
biệt trên lãnh thổ Việt Nam từ năm 1955 cho đến năm 1975.
Đây là một bài viết mà người đọc cần đi đến cuối bài.
Một cách khách quan, để nhận định một cuộc chiến diễn ra dưới
cơ chế là một cuộc xung đột nội địa hay quốc tế, trước tiên phải xác định được
danh nghĩa pháp lý của các bên tham gia, mà cụ thể hơn, họ có được xem là quốc
gia (“state”) theo quy định của pháp luật quốc tế hay không?
Sự công nhận của cộng đồng quốc tế không quan trọng?
Pháp luật quốc tế vẫn chưa có một định nghĩa hay tiêu chuẩn
chính thức để xác định danh tính quốc gia. Cho đến nay, quốc gia, các tổ chức
và các học giả quốc tế đều dựa vào 4 tiêu chuẩn từ Điều ước Montevideo về Quyền
và trách nhiệm của Quốc gia, ký kết vào năm 1933.
Đây vốn chỉ là một điều ước khu vực giữa các quốc gia thuộc
Châu Mỹ lục địa. Tuy nhiên, theo cân nhắc của nhiều học giả, các tổ chức học
thuật có thẩm quyền (như International Law Association hay International Law
Commission) và thực hành của nhiều quốc gia khác nhau; bốn tiêu chuẩn này thật
sự chỉ pháp điển hoá tập quán pháp quốc tế. Vì vậy, chúng được xem là căn cứ hợp
pháp để xác định tư cách quốc gia.
Bốn tiêu chuẩn được ghi nhận gồm: (1) Lãnh thổ xác định, (2)
Dân cư xác định (cả hai tiêu chuẩn này không cần thiết phải tuân thủ theo một số
lượng cụ thể), (3) Chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả và (4) Năng lực
tham gia vào điều ước với quốc gia khác.
Có ba điểm cần chú ý trong bộ tiêu chuẩn nói trên.
Một là, khái niệm dân cư không đồng nghĩa với việc nó phải
thuộc một nhóm dân tộc, màu da hay tôn giáo nhất định. Theo đó, một quốc gia
không nhất thiết chỉ có dân cư thuộc một nhóm dân tộc, màu da hay tôn giáo. Ngược
lại, không nhất thiết hai nhóm dân cư cùng thuộc một dân tộc, màu da hay tôn
giáo thì phải cùng một quốc gia với nhau.
Hai là, dù chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hình thành quốc gia, điều này không nên được
hiểu đồng nghĩa với việc chính phủ, chính quyền đương thời tương đồng với sự tồn
tại của chính quốc gia đó. Ta có thể hiểu rõ hơn vấn đề này thông qua vài ví dụ
như Somalia, Palestine, và Đài Loan.
Somalia tính cho đến nay, có thể đã được xem là “failed
state” – “một quốc gia thất bại”, nơi mà chính quyền trung ương biến mất (hoặc
không đủ năng lực kiểm soát quốc gia) và được thay thế bởi chủ nghĩa bộ tộc và
lãnh chúa địa phương. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quốc gia Somalia không
còn tồn tại và ai cũng có thể xâm chiếm vùng lãnh thổ nói trên.
Tương tự, có thể nói rằng Palestine vẫn chưa có được một
chính phủ hiệu quả thống nhất lãnh đạo. Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) được
xem là một đại diện lý tưởng cho Palestine, nhưng tranh chấp bạo lực giữa các
phe phái như Hamas hay Fatah vẫn còn đó. Mặc dù vậy, việc không có một chính phủ
hiệu quả đại diện cho nhóm dân cư này cũng không đồng nghĩa với việc quốc gia
Palestine không tồn tại.
Đài Loan, xét mọi mặt, ở một mức độ mạnh mẽ và rõ ràng hơn,
có thể xem là một quốc gia độc lập – đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Montevideo.
Tuy nhiên, Đài Loan cũng đang đẩy mình vào thế khó theo mặt pháp lý, tương đương với miền Nam Việt Nam mà bài viết
sẽ phân tích ở phần sau.
Ba là, dù yêu cầu thứ tư có nhắc đến việc tham gia vào điều
ước quốc tế với quốc gia khác, điều này không đồng nghĩa với việc chính phủ đó
phải được cộng đồng quốc tế công nhận. Yêu cầu này nhằm nói đến quyền hạn và
năng lực thực thi điều ước nếu được ký kết, không phải nhằm ám chỉ rằng quốc
gia đó phải được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Hiển nhiên, điều này cũng chỉ
mang tính tương đối.
Nhiều học giả đã và đang cân nhắc sức nặng của yếu tố cộng đồng
quốc tế, hay cụ thể nhất là việc được tiếp nhận trở thành thành viên của Liên
Hiệp Quốc (United Nations – UN). Trên thực tế, được UN hay các cường quốc công
nhận là một bước đệm quan trọng, nhưng sự đồng thuận chung của cộng đồng học
thuật thế giới và các tổ chức học thuật có thẩm quyền thì đây không phải, và
không nên là một yêu cầu bắt buộc.
Một dân tộc – hai quốc gia? Khả dĩ.
Với những thông tin như trên, chúng ta có thể tập hợp lại và
tạo nên một bức tranh chung về “statehood” của hai miền Nam Bắc Việt Nam.
Vĩ tuyến 17 chia cắt Việt Nam làm hai miền. Ảnh: BBC.
Trước tiên, có đủ căn cứ và cơ sở để cho rằng tồn tại hai quốc
gia tách biệt trên lãnh thổ Việt Nam từ năm 1955 cho đến năm 1975.
Cả hai quốc gia đều có lãnh thổ và dân cư xác định, có chính
phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả; đều từng tham gia vào các hiệp ước, hiệp định
quốc tế.
Vì vậy, dù chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các đồng
minh có tuyên bố chính phủ Việt Nam Cộng hòa là ngụy quân, ngụy quyền, bù nhìn
của Mỹ; hay ngược lại, dù chính quyền Việt Nam Cộng hòa có lên án chính quyền
miền Bắc là quân cờ của Cộng sản, quên lịch sử cha ông… thì cũng không làm thay
đổi danh tính pháp lý của họ theo quy chuẩn pháp luật quốc tế.
Tuy nhiên, cách nhìn nhận này cũng không hẳn là hoàn toàn
không có kẽ hở.
Đầu tiên, cả hai quốc gia đều cho rằng mình là đại diện hợp
pháp cho toàn Việt Nam; tương tự như vấn
đề “Một Trung Quốc ” (One China) giữa Đài Loan và Trung Quốc hiện tại. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc tranh chấp hai miền mang dáng dấp của một cuộc nội chiến
hơn là tranh chấp liên quốc gia. Tuy nhiên, theo người viết, điều này không làm
mất đi bản chất nhà nước của hai quốc gia theo tiêu chuẩn của Montevideo.
Thứ hai, phải tính đến luận điểm cho rằng Ngô Đình Diệm,
chính quyền Bảo Đại và Hoa Kỳ đã không tôn trọng Hiệp định Geneva và không tuân
thủ việc thi hành cuộc tổng tuyển cử 1956 như dự định.
Nhưng nếu cho rằng Hiệp định Geneva giải quyết được vấn đề
Việt Nam thì cũng không tôn trọng quyền dân tộc tự quyết (self-determination) của
một bộ phận người dân Việt Nam, quy định tại Khoản 2, Điều 1, Hiến chương Liên
Hiệp Quốc. Đặc biệt, bối cảnh pháp lý của hai chính quyền tồn tại song song ở
thời điểm này tương đối phức tạp.
Tính chính danh của chính phủ VNDCCH chủ yếu dựa vào cuộc tổng
tuyển cử năm 1946. Tính chính danh này càng được tăng cường hơn sau khi vua Bảo
Đại chính thức thoái vị và trao lại ấn tín, quốc bảo của hoàng triều Nguyễn cho
đại diện chính Phủ VNDCCH Trần Huy Liệu ngày 25/8/1945.
Tuy nhiên, với Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt ngày 6/3/1946, được
ký kết giữa ông Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp, và ông Hồ Chí
Minh cùng ông Vũ Hồng Khanh, đại diện chính phủ VNDCCH; VNDCCH chỉ còn lại phía
Bắc Việt Nam (và vẫn thuộc khối Liên hiệp Pháp), miền Nam Việt Nam vẫn thuộc
nhà nước Cộng Hòa Pháp với lời hứa hẹn cho một cuộc trưng cầu dân ý – thống nhất
với VNDCCH trong tương lai. Ngày 1 tháng 6 cùng năm, người Pháp thành lập Nam Kỳ
Quốc đặt thủ phủ tại Sài Gòn.
Trong giai đoạn từ 1946 đến 1949, sự cứng đầu của cựu vương
tân Quốc trưởng Bảo Đại đối với các đại biểu Pháp cũng đã giúp Quốc Gia Việt
Nam thành lập với cơ sở của Hiệp ước Elysée (8/3/1949). Trải qua nhiều biến cố
với cuộc “đảo chính bằng phiếu” của ông Ngô Đình Diệm, chính quyền Quốc gia Việt
Nam cũng có nền tảng pháp lý khá tương đồng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
Vì vậy, việc Cộng hòa Pháp tự tiếp tục cho mình toàn quyền sắp
đặt ngày tổng tuyển cử với Hiệp định Geneva là can dự vào nội bộ Việt Nam, một
việc làm không thỏa đáng, đặc biệt khi hai bên duy nhất chấp nhận ký kết hiệp định
chỉ có chính phủ kháng chiến của VNDCCH và nhà nước Cộng hòa Pháp, còn chính phủ
Bảo Đại và Hoa Kỳ đều phản đối Hiệp định.
***
Với tất cả các thông tin nói trên, cân nhắc nền tảng pháp lý
tương đồng, năng lực quản lý tương đương, có đầy đủ lý do (theo công pháp quốc
tế) để cho rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa là hai thực thể
nhà nước hoàn toàn độc lập.
Vậy nên, hành vi dùng vũ lực quân sự để tước đoạt chính quyền,
lãnh thổ của một quốc gia khác, theo định nghĩa của Điều 1, Nghị quyết 3314 năm
1974 của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, là hành vi xâm lược theo công pháp quốc tế.
***
Tài liệu tham khảo:
Toàn văn Hiến chương Liên Hiệp Quốc
Toàn văn Nghị quyết 3314 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc
Thomas D. Grant; Defining Statehood: The Montevideo
Convention and its Discontents (Columbia Journal of Transnational Law, 1999)
James Crawford; The Creation of State of Palestine: Too much
too soon? (EJIL, 1990)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét