Nhiều
ngưởi tin rằng, Trung Quốc đang nắm lợi thế ở Biển Đông. Tuy nhiên, xem
xét kỹ hơn thì thấy Trung Quốc còn rất xa mới có thể hoàn thành được
những mục tiêu của mình – thậm chí Trung Quốc còn có một số thất bại
nghiêm trọng.
Trung Quốc đã thực
hiện được nhiều hoạt động trên Biển Đông – xây dựng các căn cứ quân sự
trên các đảo, trang bị vững chắc về kinh tế và yêu sách chủ quyền lãnh
thổ. Những diễn biến đó đã khiến nhiều người tin rằng quốc gia này đang
nắm được lợi thế trong cuộc chiến địa chính trị cam go. Tuy nhiên, xem
xét kỹ hơn thì thấy Trung Quốc còn rất xa mới có thể hoàn thành được
những mục tiêu của mình – thậm chí Trung Quốc còn có một số thất bại
nghiêm trọng.
Để biết liệu Trung
Quốc đã đạt được những mục tiêu của mình hay chưa, trước hết ta phải
hiểu những mục tiêu đó là gì. Có ba điều Bắc Kinh muốn đảm bảo ở Biển
Đông. Đó là: chủ quyền, ưu thế chiến lược và lợi ích kinh tế.
Chủ quyền
Trung Quốc từ lâu đã
diễn tả những yêu sách của họ trên vùng biển tranh chấp này bằng những
cách thức nhằm nhấn mạnh chủ quyền. Bức thư họ gửi đến Tổng thư ký Liên
Hợp Quốc năm 2009 là điểm khởi đầu cho những căng thẳng hiện nay.
Trong thư, Bắc Kinh đã
giới thiệu “đường chín đoạn” (một đường trên bản đồ mô tả yêu sách của
Bắc Kinh) và dùng cách diễn giải mà họ đã sử dụng từ giữa những năm
1970: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở
Biển Đông cùng các vùng nước lân cận.”
Ngay cả trong chính
sách “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Đặng Tiểu Bình đưa ra từ những
năm 1980 thì cũng bắt đầu với cụm từ “chủ quyền là của chúng ta”. Dù
vậy, Trung Quốc vẫn chưa bao giờ minh bạch về phạm vi yêu sách chủ quyền
của mình là chỉ gồm các đảo hay là bao gồm cả đảo và biển.
Nếu mối quan tâm chủ
yếu của Trung Quốc chỉ là chủ quyền các đảo nằm trong đường chín đoạn
thì quốc gia này cũng chưa hề gần tới mục tiêu của mình hơn so với năm
2009. Bởi lẽ năm bên liên quan khác trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông
(Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam) vẫn kiên định với
các yêu sách của họ. Trên thực tế, mối nghi ngờ rằng Trung Quốc muốn
thâu tóm tất cả các thực thể địa lý trên biển đã là một lý do tốt để
những quốc gia này tiến hành chiếm hữu, cải tạo và triển khai quân sự
trên các đảo.
Điều này rất đúng ở
quần đảo Trường Sa, nơi Việt Nam kiểm soát hầu hết các thực thể đã có
chiếm hữu thực tế, và Đài Loan chiếm vùng đất tự nhiên rộng lớn nhất của
quần đảo này. Philipinnes cũng đã tăng cường bảo vệ các thực thể địa lý
mà họ chiếm đóng trong suốt 10 năm qua, bất chấp hoạt động tiếp cận
Trung Quốc gần đây của tổng thống Duterte[1].
Tại quần đảo Hoàng Sa,
sự chiếm đóng và kiểm soát lâu dài của Trung Quốc đã hạn chế các quốc
gia khác tiến hành các biện pháp thực địa để khẳng định yêu sách của
mình. Nhưng điều này cũng chẳng ngăn cản được các đối thủ của Trung
Quốc, đặc biệt là Việt Nam, lớn tiếng hơn bao giờ hết.
Các vùng biển lân cận
Mỗi khi vấn đề yêu
sách của Trung Quốc đối với các thực thể địa lý trên Biển Đông được đề
cập, Bắc Kinh luôn khẳng định rằng vấn đề này chỉ nên được quyết định
giữa các các bên trực tiếp liên quan. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa từng
làm rõ ý nghĩa của “các vùng biển lân cận”. Có phải họ chỉ đang đòi
những quyền đã được quốc tế công nhận trên những vùng nước xung quanh
các đảo mà họ tuyên bố chủ quyền? Hay là họ đang yêu sách toàn bộ vùng
nước bên trong đường chín đoạn – [được coi là] “lãnh thổ xanh” của họ
như cách gọi chính thức của chính phủ Trung Quốc? Sự mập mờ giữa hai khả
năng đã thúc đẩy các bên tranh chấp còn lại đoàn kết với nhau để chống
lại khả năng thứ nhì. Và yêu sách của Trung Quốc đối với toàn bộ vùng
biển trong đường chín đoạn cũng có thể đưa Jakarta vào cuộc tranh chấp,
vì đường chín đoạn đó chèn lên vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia
(EEZ) gần quần đảo Natuna.
Nếu các tuyên bố về
chủ quyền của Trung Quốc bao gồm cả biển, họ đang làm mất đi ưu thế của
mình. Một vài bên trong cuộc tranh chấp này – bao gồm cả Indonesia – đã
chính thức phản đối những tham vọng như vậy. Năm ngoái, Toà Trọng tài
Thường trực PCA đã công bố một phán quyết[2] [của Toà trọng tài vụ kiện Biển Đông] bác bỏ hoàn toàn yêu sách biển của Trung Quốc[3].
Đồng thời, phán quyết này cũng khẳng định một số thực thể, như Đá Vành
Khăn, Bãi Cỏ Rong và Bãi Cỏ Mây, không phải là đối tượng để tuyên bố chủ
quyền vì chúng không phải là đảo hay đá thật sự. Và vì các thực thể này
nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines, toà
án cho rằng Philippines có toàn quyền với chúng cùng các vùng biển xung
quanh. Phán quyết cũng chỉ ra rằng Trung Quốc đã xâm phạm quyền của
Philippines được đánh bắt cá chung ở gần bãi cạn Scarborough, một điểm
nóng tiềm năng khác.
Quan trọng hơn, yêu
sách của Trung Quốc đối với toàn bộ vùng biển đã mở rộng tranh chấp vượt
ra ngoài khu vực và can dự tới cả những quốc gia đang có hoạt động hải
quân trong vùng này, ví dụ như Hoa Kỳ. Những cường quốc hải quân ngoài
khu vực này đặc biệt quan ngại bởi những tham vọng của Bắc Kinh có thể
hạn chế các quyền hàng hải đã được quốc tế công nhận. Với những tình
huống như thế, những hứa hẹn của Trung Quốc về việc đảm bảo quyền tự do
lưu thông thương mại không thực sự thuyết phục. Nhiều nước, như các nước
Châu Âu, vẫn lo ngại về tiền lệ mà những yêu sách thế này sẽ đặt ra.
Còn với Washington, các mối quan tâm chính tập trung vào các quốc gia
đang được Mỹ bảo hộ an ninh là Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong
trường hợp xảy ra xung đột mà can dự tới bất kỳ nước nào trong ba nước
này, các lực lượng của Mỹ sẽ cần đi qua khu vực Biển Đông mà không bị
cản trở.
Chừng nào mà những yêu
sách của Trung Quốc với Biển Đông còn bao gồm các đường biển quốc tế
thì nước này vẫn sẽ phải tiếp tục đối mặt với phản kháng mạnh mẽ từ các
cường quốc ngoài khu vực và làm phức tạp thêm tranh chấp với các quốc
gia láng giềng. Nếu Trung Quốc làm rõ đường chín đoạn chỉ là yêu sách
các đảo và những quyền bắt nguồn từ các đảo đó thì họ đã có thể chia
tách các nước có yêu sách khác khỏi những quốc gia không phải là một bên
tranh chấp nhưng có liên quan. Vẫn sẽ còn tồn tại những bất đồng về một
số quyền trong khuôn khổ Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển nhưng
những bất đồng đó sẽ được giải quyết dựa trên luật pháp chứ không phải
dựa trên sự cho phép của Trung Quốc.
Lợi thế địa chính trị
Mục tiêu thứ hai của
Trung Quốc là đạt được lợi thế địa chính trị. Trên phương diện này thì
Trung Quốc đang làm tốt hơn. Họ đã củng cố được rất tốt kiểm soát trên
các thực thể địa lý thuộc quần đảo Hoàng Sa. Tại Trường Sa, bảy hòn đảo
nhân tạo Bắc Kinh tạo dựng đã mang đến cho họ một vị thế chiến lược mới.
Điều này quan trọng bởi bốn lý do.
Thứ nhất là lợi thế
triển khai vũ lực trên Biển Đông. Trong một bức thư gửi Chủ tịch Uỷ ban
Quân vụ Thượng viện Hoa Kỳ vào năm ngoái, Giám đốc Cơ quan tình báo Quốc
gia James Clapper đã liên hệ tới đánh giá của ông rằng “Trung Quốc đã
thiết lập cơ sở hạ tầng cần thiết để triển khai năng lực quân sự trên
Biển Đông vượt xa hơn mức phòng vệ tiền đồn.”
Tại thời điểm đó, lực
lượng Hải quân Giải phóng Nhân dân đã sử dụng các tiện nghi cảng biển
tại một số đảo nhân tạo lớn nhất của Trung Quốc. Kể từ đó, Trung Quốc đã
triển khai máy bay quân sự ít nhất một lần trên một đảo nhân tạo ở
Trường Sa[4].
Các nhà kho chứa máy bay bắt đầu được xây dựng trên các đảo, mà theo Bộ
Tư lệnh Hoa Kỳ Đặc trách Thái Bình Dương, có thể chứa được 72 máy bay
chiến đấu phản lực và 10 phi cơ lớn hơn, như máy bay ném bom hay các máy
bay chở dầu. Đáp lại những cáo buộc này, Trung Quốc phủ nhận đang “quân
sự hoá” Biển Đông và nói rằng các hoạt động triển khai quân sự này là
nhằm để bảo vệ quyền chủ quyền [của họ].
Thứ hai, theo một nhà
phân tích kỳ cựu, thuyền trưởng nghỉ hưu Bernard Cole của Trường Cao
đẳng Chiến tranh Quốc gia [Hoa Kỳ], những công trình Trung Quốc xây dựng
ở quần đảo Trường Sa đã “thiết lập được vị thế vượt trội cho Trung Quốc
trong cuộc chiến tranh điện tử và khả năng bao phủ của radar” trên toàn
khu vực. Nếu xây dựng trên cả bãi cạn Scarborough, Trung Quốc sẽ có khả
năng dựng lên một “bức tranh toàn cảnh Biển Đông”. Điều này rất cần
thiết cho việc giám sát cái mà Trung Quốc coi là xâm phạm vào quyền chủ
quyền của họ. Đây cũng là điểm then chốt để Trung Quốc có thể bảo vệ
những quyền đó trong trường hợp xảy ra xung đột trên biển với Hoa Kỳ.
Chuỗi đảo
Thứ ba, đường chín
đoạn bao gồm nửa phía Nam của cái được gọi là “chuỗi đảo thứ nhất” bao
quanh vùng Đông Á như một sợi dây chuyền. Trung Quốc có mối quan tâm đến
việc củng cố sức mạnh quân sự trong khu vực này bao gồm cả Biển Hoa
Đông và Biển Đông. Theo quan điểm của Trung Quốc, các nước đồng minh của
Mỹ và các căn cứ quân sự dọc theo hàng rào ngoài khơi này (gồm có Nhật
Bản, Okinawa, Đài Loan và Philippines) đã ngăn cản họ tiếp cận đại dương
xa hơn[5].
Nếu có sức mạnh quân sự thống trị ở vùng phía Nam của chuỗi này thì sẽ
phá vỡ được sự bao vây đó. Nó cũng sẽ cho phép Trung Quốc đặt “chuỗi đảo
thứ hai”, gồm có các địa hạt của Mỹ ở quần đảo Bắc Mariana và Guam, vào
thế mạo hiểm. Tình huống này có thể làm rắc rối các kế hoạch quân sự
của Hoa Kỳ khi muốn can thiệp vào bất cứ cuộc xung đột nào liên quan đến
Trung Quốc.
Cuối cùng, Trung Quốc
có thể nhìn Biển Đông như một thành luỹ cho các tàu ngầm nguyên tử hạt
nhân của họ. Trung Quốc có 4 tàu ngầm hạt nhân hiện đại mang tên lửa đạn
đạo, chiếc thứ năm hiện đang được xây dựng và tiếp theo đó Trung Quốc
có kế hoạch xây dựng lớp tàu thuyền thế hệ mới. Mục tiêu của những vũ
khí này là trang bị cho Trung Quốc một năng lực bảo đảm có thể đáp trả
những cuộc tấn công hạt nhân trong bất cứ cuộc xung đột lớn nào với Hoa
Kỳ.
Một thành luỹ như vậy,
được bảo vệ bởi các lực lượng hải quân khác, sẽ là một địa điểm hấp dẫn
để Trung Quốc triển khai các tàu ngầm hạt nhân nếu không thể thống trị
chuỗi đảo thứ nhất hoặc phát triển công nghệ cần thiết để vượt qua nó mà
không bị phát hiện. Việc tăng thêm loạt tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo
nằm trong dự kiến đã nêu bật sự hấp dẫn của phương án này. Trở ngại lớn
nhất là sự hiện diện hiện tại của Hải quân Hoa Kỳ luôn ở trong tư thế
sẵn sàng và tích cực, và có liên hệ mật thiết với các đồng minh và đối
tác trong khu vực.
Lợi ích kinh tế
Mục tiêu thứ ba của
Bắc Kinh tập trung xung quanh lợi ích kinh tế. Trung Quốc ngày càng phụ
thuộc vào thương mại trên biển. Thương mại chiếm khoảng 40% GDP của
Trung Quốc, với phần lớn đến từ biển. Con số này đã bao gồm cả các nguồn
năng lượng. Đến năm 2030, Trung quốc sẽ sử dụng gấp 3 lần số lượng dầu
và 60% lượng than trên toàn thế giới. Dù có sản lượng nội địa, nền kinh
tế Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu nhiên liệu
hoá thạch. Bởi xu hướng này, Bắc Kinh đã phát triển một chiến lược toàn
diện lâu dài bao gồm duy trì kiểm soát lãnh hải.
Bắc Kinh cũng muốn chiếm được những nguồn tài nguyên năng lượng[6].
Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ ước tính Biển Đông có thể
chứa nhiều nhất tới 11 tỉ thùng dầu – ngang với Mexico. Tuy nhiên, Trung
Quốc lại đưa ra con số ước tính khác là 125 tỉ thùng – nhiều hơn cả
Kuwait. Dù là con số nào thì hầu hết trữ lượng dầu tại vùng biển này đều
nằm trong đường chín đoạn của Trung Quốc. Bắc Kinh đã và đang tích cực
thách thức lợi ích của Philippines tại khu vực Bãi Cỏ Rong. Đây là vùng
đặc biệt có trữ lượng dầu lớn nằm trong thềm lục địa của Philippines.
Tình hình cũng tương tự đối với các nguồn khí tự nhiên.
Mặc dù không có nguồn
dầu khí nào được tìm thấy tại những chuỗi quần đảo chính ở Biển Đông là
Trường Sa và Hoàng Sa, những quần đảo này vẫn có giá trị chiến lược lớn
bởi chúng giúp Trung Quốc có thể tiếp cận các nguồn tài nguyên ở lân cận
đó.
Các ngư trường cũng rất quan trọng.[7]
Biển Đông chiếm 10% sản lượng đánh bắt cá trên toàn cầu và cung cấp
nguồn protein thiết yếu cho người dân Trung Quốc. Không phải ngẫu nhiên
mà nhiều căng thẳng trên Biển Đông liên quan đến tàu đánh bắt cá.
Chỉ thành công một phần
Trung Quốc đã chỉ
thành công được một phần trong việc đạt được mục tiêu kinh tế tại Biển
Đông. Những đường biển của Trung Quốc hiện không bị đe doạ nhưng sẽ còn
lâu nữa Trung Quốc mới có thể tự bảo vệ chúng. Dĩ nhiên là sự bành
trướng và hiện diện của hải quân Trung Quốc ở Hoàng Sa – và bây giờ là
Trường Sa – sẽ giúp Trung Quốc đạt được mục tiêu này. Nhưng điều này
cũng đồng nghĩa với việc họ sẽ phải thay thế được hải quân Hoa Kỳ, và
điều này không có vẻ gì là sớm đạt được. Nhiều nhất chỉ có thể nói Trung
Quốc đã đặt một khoản đặt cọc đáng kể cho việc đạt được mục đích này về
sau.
Để có nguồn năng
lượng, Trung Quốc hiện đã đang tiến hành sản xuất tại các vùng thuộc chủ
quyền của họ ở Biển Đông. Còn việc sản xuất năng lượng tại các vùng
tranh chấp có khả năng làm Trung Quốc hao tốn nhiều chi phí ngoại giao
vì Việt Nam[8],
Philippines, hay các nước khác sẽ không từ bỏ yêu sách của mình hay
ngừng lại quá trình khai thác và sản xuất đang được triển khai. Nếu dự
định của Trung Quốc là lấy tài nguyên của các nước khác thì Trung Quốc
chưa đạt được tiến bộ nào trong mục tiêu này. Trên thực tế, bởi vì hợp
tác cùng khai thác các nguồn năng lượng ở biển là cách thức hợp lý nhất
cho Trung Quốc có thể tiếp cận các khu vực xa bờ, Bắc Kinh đã thực sự
thất bại [về phương diện này]. Sự hung hăng của Trung Quốc đang làm hại
chính viễn cảnh hợp tác với các nước tranh chấp khác.
Còn khi nói đến đánh
bắt thuỷ hải sản thì Bắc Kinh đang đạt được mục tiêu của mình. Bất chấp
những căng thẳng ngoại giao, sự xuất hiện của các tàu cá lớn của Trung
Quốc trên vùng biển là minh chứng cho thành công của họ.
Những mục tiêu chưa đạt được
Trung Quốc đã thắng
trên Biển Đông hay chưa? Điều này tuỳ vào cách nhìn của mỗi bên. Bắc
Kinh chưa đến gần được hơn mục tiêu thiết lập chủ quyền trong toàn bộ
đường chín đoạn, dù là với thực thể địa lý hay các hải lộ. Phán quyết
của Toà trọng tài là một thất bại lớn đối với Trung Quốc. Tuy quân đội
Trung Quốc đang thiết lập sự hiện diện trên biển với năng lực có thể đe
doạ những nước đang tranh chấp khác, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để giúp
Trung Quốc đạt được các mục tiêu chiến lược trừ khi Mỹ rút lui.
Còn về những mục tiêu
kinh tế, Trung Quốc đã thất bại trong việc có được những nguồn năng
lượng mới, thành công trong việc tạo ra con đường đến các ngư trường và
có thể đang đạt được những bước tiến nhằm đạt được mục tiêu lâu dài là
tự chủ bảo vệ những đường biển quan trọng đối với nền kinh tế của quốc
gia này.
Walter
Lohman là giám đốc Trung tâm Nghiên cứu châu Á thuộc Quỹ Heritage. Bên
cạnh đó, ông là một chuyên gia phân tích chính sách tập trung chủ yếu ở
Đông Nam Á, và rộng hơn là chính sách châu Á bao gồm mối quan hệ với các
đồng minh của Mỹ là Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc. Ông là tiếng nói hàng đầu
ở Quỹ Heritage về mối quan hệ Mỹ – Đài Loan và là một nhà quan sát chặt
chẽ các chính sách của Trung Quốc. Bài viết được đăng trên Geopolitical Intelligence Services.
Nguồn bản dịch: Đại sử ký Biển Đông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét