Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Vào ngày này năm 1916, Harry Butters, một người lính Mỹ phục vụ trong quân đội Anh trong Thế chiến I, bị giết bởi một quả bom Đức trong Trận Somme, khi đang chiến đấu để bảo vệ thị trấn Guillemont, Pháp.
Là con trai của một nhà công nghiệp nổi tiếng ở San Francisco, Butters được nuôi dạy một phần ở Anh và theo học tại trường Beaumont College, một học viện dòng Tên ở Old Windsor. Sau đó, anh gia nhập Học viện Phillips Exeter ở Exeter, New Hampshire, trước khi thừa hưởng tài sản của cha mình sau khi ông qua đời vào năm 1906 và chuyển về California, nơi anh làm việc trong một thời gian cho Standard Oil và mua trang trại của riêng mình.
Khi Thế chiến I nổ ra vào mùa hè năm 1914, Butters ủng hộ lý tưởng của quân Đồng minh và quyết định gia nhập quân đội Anh. Thông qua các mối quan hệ tại trường học cũ ở Anh, anh được nhận nhiệm vụ trong Đội Pháo binh Hoàng gia, Sư đoàn 24, Lữ đoàn 107 vào tháng 04 năm 1915. Vào tháng 09, Butters đến Pháp cùng các đồng đội, nơi anh tham gia vào cuộc tấn công được thực hiện vô cùng kém cỏi của quân Anh trong Trận Loos vào cuối tháng đó.
“Tôi thấy mình là một người lính giữa hàng triệu người khác trong các binh đoàn quân đồng minh vĩ đại đang chiến đấu cho tất cả những gì mà tôi tin là đúng đắn, văn minh và nhân đạo, chống lại một quyền lực xấu xa đang đe dọa sự tồn tại của tất cả các quyền mà chúng ta quý trọng cũng như sự tự do mà chúng ta đang hưởng thụ”, Butters gửi thư về nhà vào ngày 05 tháng 10 năm 1915, mô tả trải nghiệm của anh trên chiến trường tại Loos.
Butters đang ở tiền tuyến gần làng Ploegsteert của Bỉ vào tháng 04 năm 1916 khi ông gặp Winston Churchill; Churchill lúc đó là chỉ huy tiểu đoàn trên Mặt trận phía Tây sau khi rời khỏi Hải quân Anh sau những chiến dịch tai hại của quân Đồng minh trên Bán đảo Gallipoli năm trước đó. Bị ấn tượng bởi chàng trai người Mỹ trẻ tình nguyện phục vụ trong quân đội Anh – “Tôi chỉ nói dối họ và bảo rằng tôi sinh ra là người Anh,” Butters nói với Churchill, giải thích về nhiệm vụ của mình trong đội Pháo binh Hoàng gia – Churchill đã mời Butters dùng bữa với ông trong boongke của mình, nơi hai người ăn tối và uống rượu sâm banh vào tối ngày 11 tháng 04. Sau khi bị sốc do đạn trái phá, Butters đã được gửi đi nghỉ vào tháng 06. Mặc dù Churchill, lúc đó đang ở London, thúc giục Butters dành thời gian nghỉ ngơi trước khi trở về phục vụ, anh đã quay trở lại Mặt trận phía Tây vào ngày 02 tháng 07, một ngày sau khi quân Đồng minh bắt đầu Trận Somme oanh liệt.
Vào ngày 31 tháng 08 năm 1916, Butters và đơn vị của ông ở Somme, khai hỏa nhằm vào Rừng Trones, bên ngoài Guillemont, khi khẩu súng của anh bị đánh trúng trực tiếp bởi một quả đạn pháo của Đức; anh và tất cả các thành viên trong khẩu đội pháo của mình đã bị giết. “Tôi không phóng đại khi nói rằng gần 100.000 quả đạn pháo đã rơi vào ngày hôm đó trên một diện tích khoảng 800 thước vuông”, Mục sư A. Caseby viết trong nhật ký của ông khi kể lại cái chết của Butters. Butters được chôn cất tại Nghĩa trang Sĩ quan Khối thịnh vượng chung tại Meulte, một ngôi làng nhỏ ở phía nam Albert, nước Pháp. Theo yêu cầu của anh ta vào cuối tháng 08 với một giáo sĩ Anh, bia mộ của anh chỉ ghi đơn giản là “Một công dân Mỹ.”
Churchill đã viết một bài tưởng niệm cho Butters ở Đài quan sát London: “Anh đã phục vụ nhiều trên tiền tuyến, bao gồm cả Trận Loos, và đã vượt qua một cách vô sự cho đến hồi tháng 6 vừa rồi khi một loạt đạn pháo phá hủy vị trí quan sát của anh và đánh gục anh. Anh đã nghỉ ngơi chỉ một tuần trước khi quay lại tiền tuyến, khinh thường như vốn thế trước các mối đe dọa liên tục của cái chết. Và như vậy, khá đơn giản, anh đã gặp định mệnh của mình. Anh là một trong những chàng trai thông minh, vui vẻ nhất mà tôi từng được biết, và luôn luôn là cuộc sống và linh hồn trong sự hỗn loạn. Chúng ta nhận ra sự cao thượng của anh khi đã đến để giúp đỡ một quốc gia khác hoàn toàn bởi ý chí tự do của riêng mình, và hiểu được rằng anh có một trái tim lớn đến nhường nào.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét