Hình minh họa.
Sinh con mà không thấy sợ
Vào đầu thế kỷ thứ 20, nữ giới
tranh đấu hết sức mình để mỗi bà mẹ đều nhận được thuốc giảm đau khi sinh con.
Rồi tới năm 1960, các bà cũng lại tranh đấu thêm một lần nữa nhưng lần này lại
để khi sinh thì mình không cần thuốc tê hoặc thuốc mê.
Phải đợi tới khi có một nhân vật
là ông Grantly Dick Reed (1890-1959), một bác sĩ người Anh đã từng chăm sóc cho
các bà mẹ ở khu ổ chuột ở Luân Đôn can đảm đứng ra nói rằng những cơn đau trong
khi sinh là do các bác sĩ và con người gây ra.
Kể từ khi còn bé, ông này đã cảm
thấy bị mê hoặc bởi chuyện tự nhiên, đặc biệt là với sự sinh đẻ. Sau này, khi
hành nghề, ông lại khám phá những gì xảy ra cho súc vật đều không áp dụng cho
quý bà quý cô được. Ông ta kết luận rằng người ta đã tạo ra một sự sợ hãi sinh
đẻ và sự hãi này khiến cho các cơ bắp co lại và gây ra đau trong khi sinh. Ông
ta gọi đó là “ hội chứng sợ hãi - căng thẳng - đau”.
Theo ý ông bác sĩ này, giáo dục
là quan trọng. Trong các tác phẩm của ông với tựa đề “Natural Childbirth” xuất
bản năm 1933 và Childbirth Without Fear xuất bản năm 1942 đều nhắm vào việc giải
thích sinh đẻ để các bà mẹ hiểu rõ và nhờ đó sự sợ hãi của các bà bớt đi. Ông rất
nghiêm khắc với thói quen không tha thứ được, là cứ mỗi lần sinh lại phải dùng
đến thuốc mê.
Tôi…tưởng tượng ra một đám đàn
ông trong blouse trắng và mang kính gọng sừng đi tìm kiếm danh vọng và tiền tài
để bảo vệ quý bà chống lại những kẻ thù mà 95% không có và khí giới của họ lại
có hại cho phụ nữ và con bà ta bằng khí giới nhắm vào họ mà không nhắm vào kẻ
thù mà họ cho là có.”
Tuy nhiên, Dick-Reed không bao giờ
hoàn toàn loại bỏ thuốc giảm đau. Nếu bà mẹ ý thức được những gì sắp xảy ra cho
mình thì rất có thể bà ấy không cần gì cả, nhưng nếu cần thì ta đã có sẵn, chẳng
hạn như khí tê.
Vào năm 1956, tổ chức National
Childbirth Trust giới thiệu ý kiến của Dick-Read tới một số đông quần chúng ở
Luân Đôn và với sự tiếp tay của hội các bà mụ National Health Service cũng như
nhiều bác sĩ để mang ý kiến của Dick–Read ra áp dụng. Mặc dù ý kiến “có con mà
không sợ” rất hấp dẫn phụ nữ Hoa Kỳ, nhưng ở đây là hệ thống tư nhân chứ không
phải tập thể với rất ít nữ hộ sinh cho nên không áp dụng ý kiến của Dick-Read
được.
Tập trung tư tưởng
Phụ nữ Hoa Kỳ quay qua các phương
pháp tâm-trí-trên-thân thể-chất mà nhiều nhà chuyên môn học từ bên kia biển Địa
Trung Hải. Từ Soviet Union, một phong trào thực tập quên đau ở một nơi nào
trong cơ thể bằng cách tập trung vào một nơi khác khi sinh con. Phương pháp này
trở thành chính thức vào năm 1951. Hai bác sĩ Ferdinand Lamaze và Pierre Vellay
đã từng ở Nga Sô để học phương pháp này và mang về phổ biến một cách hoan hỉ ở
Pháp. Tác phẩm Painless Childhood của Lamaz trình bày chi tiết phương pháp của
Nga cộng thêm với cách thở nhanh và nông để kiểm soát sự co bóp tử cung của bà
mẹ.
Tuy nhiên, phải đợi tới khi một
người Mỹ sống ở Paris, bà Marjorie Karmel, viết những kinh nghiệm về sinh con với
phương pháp của Lamaze trong tác phẩm “Thank you, Dr Lamaze” thì phương pháp
này mới phổ biến tại Hoa Kỳ. Karmel, nhà tâm lý học Elizabeth Bing và bác sĩ
Benjamin Segal thành lập American Society for Psychoprophylaxis in Obstetrics,
một nhóm có tính cách gây áp lực để đưa phương pháp của Lamar vào luật hành nghề
y tại Hoa Kỳ.
Chăm sóc cháu bé
Khuynh hướng về sinh con đang thay
đổi: với quý bà rất tích cực sửa soạn để sinh con. Bây giờ mục tiêu lại chuyển
hướng sang các con.
Vào giữa năm 1960, một bác sĩ người
Pháp khác, Frdrique Leboyer, làm việc tại Paris Faculty of Medicine, nhớ mãi những
gợi ý của nhà giáo dục người Ý Maria Montessori và một số người khác rằng vẻ mặt
đầu tiên của cháu bé sau khi sinh rất quan trọng. Trong tác phẩm đầu tay của
mình, Birth Without Violence, Leboyer tả rằng sinh con phải hết sức nhẹ nhàng với
ánh sáng dịu, ít tiếng động, cháu bé nằm trên bụng mẹ và được mơn trớn xoa nhẹ
và ngâm mình cháu trong chậu nước ấm như là đang nằm trong bình nước ối.
Leboyer có ảnh hưởng rất lớn đối
với một người đồng hương là Michel Odent. Ông này phối hợp những kỹ thuật của cả
người đỡ đầu của mình và của Lamaz. Trong căn hộ của mình tại Pithiviers, ông
ta tạo ra một không khí không có vẻ nhà thương chút nào (tuy nhiên có sẵn ngay
bên cạnh nếu cần) nhưng có nệm và bồn tắm. Ông nói với các bà mẹ là nằm cách
nào cũng được để có thể đối phó với những cơn co dãn tử cung và bất cứ sinh khó
đến đâu cũng có thể thực hiện được. Và với cách này thì thuốc giảm đau hầu như
không cần.
Phong trào của quý bà cùng với ý
kiến của giới tiêu thụ góp phần vào việc hợp thức hóa phương thức mới này. Tới
năm 1980, phòng sinh được thực hiện, ghế để sinh được dùng trở lại, tình nghĩa
mẹ con được lưu ý và những người hỗ trợ, mà đa số là quý ông, lại rất đông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét