Một cảnh sát cúi đầu cám ơn người dân Đồng Tâm sau khi được
thả ra ngày 22 tháng Tư, 2017. (Hình: REUTERS/Kham)
Chế độ sở hữu và cách thức quản lý đất đai luôn là mối bận
tâm của mọi chính thể trên thế giới từ xưa đến nay. Luật lệ điền thổ ở Việt Nam
thời phong kiến có thể nói khá hoàn chỉnh và đặc sắc, nhất là giai đoạn hậu Lê
và Nguyễn. Nhìn chung, cho đến năm 1954 đất đai tại Việt Nam vừa thuộc tư hữu,
vừa thuộc công hữu. Sở hữu tư nhân đối với đất đai là điều bình thường trong hệ
thống pháp lý trên thế giới, Việt Nam cũng không là ngoại lệ.
Sơ lược lịch sử
Nhiều quy tắc luật pháp đời nhà Lê (thường được gọi chung là
Luật Hồng Đức) về điền thổ đã để lại dấu ấn sâu đậm trong pháp chế sử Việt Nam
đến mức dù năm tháng qua đi, các triều đại lần lượt thay đổi, sự áp dụng không
còn mang tính ràng buộc trên phương diện pháp lý nữa, song chúng vẫn tiếp tục
lưu truyền dưới dạng tập quán xã hội, được người dân viện dẫn một cách mặc
nhiên trong các thỏa thuận hoặc giao dịch liên quan đến đất đai.
Dưới thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa đã khảo cứu và
áp dụng nhiều giải pháp khoa học vào việc quản lý điền thổ, giúp tạo nên sự ổn
định xã hội và phát triển kinh tế trong thời gian dài. Một trong những thành tựu
pháp lý đáng kể của các luật gia Pháp tại Việt Nam, bên cạnh các bộ dân luật Bắc
Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, chính là Sắc lệnh điền thổ ngày 21/7/1925.
Tuy nhiên, mâu thuẫn kinh tế giữa địa chủ và nông dân luôn
âm ỷ và không hóa giải được theo thời gian. Trong bộ sách đồ sộ Tư Bản Luận của
mình, Karl Marx đã phát hiện và lý giải rằng mâu thuẫn đó chính là động lực
chuyển hóa hình thái kinh tế-xã hội từ quân chủ phong kiến sang tư bản chủ
nghĩa. Luôn xem chủ nghĩa Marx-Lenin là hệ tư tưởng của mình, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lợi dụng mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân để thu hút và biến giới nông
dân thành lực lượng cách mạng chủ yếu, dưới khẩu hiệu “người cày có ruộng” hoặc
“ruộng đất cho dân cày,” nghe có vẻ như là lời kêu gọi giành lấy ruộng đất từ địa
chủ để chia lại cho nông dân.
Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, chính quyền của ông Hồ Chí
Minh cũng duy trì hiệu lực của Sắc lệnh điền thổ 1925 thêm một thời gian cho đến
khi người cộng sản tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp vào cuối năm 1946. Tuy
nhiên, sau Hiệp định Genève 1954, một chính sách đất đai hoàn toàn mới dựa trên
nền tảng của học thuyết kinh tế-chính trị Marx-Lenin dần hình thành và áp dụng
từ năm 1955 ở miền Bắc và từ năm 1975 ở miền Nam.
Theo chính sách ấy, chế độ tư hữu đất đai hoàn toàn chấm dứt
và thay vào đó là định chế “quyền sử dụng đất”, xuất phát từ khái niệm “sở hữu
toàn dân”. Đây là một quan niệm kỳ lạ về quyền tài sản chỉ có ở các nước thuộc
khối Liên Xô cũ, nay vẫn tồn tại ở Trung Quốc và Việt Nam.
Công hữu tư dụng
Điều 53 Hiến pháp 2013 của Việt Nam quy định rằng đất đai là
tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý. Trong số các loại tài sản công, đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc
gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, mà nhà nước có quyền thu hồi từ
những tổ chức, cá nhân đang sử dụng nhằm mục đích phát triển kinh tế-xã hội,
theo Điều 54 của Hiến pháp 2013.
Có thể nói, sở hữu toàn dân là một quan niệm chính trị bay bổng
về kinh tế của người cộng sản, nhưng được lồng ghép một cách cưỡng bức vào khung
pháp lý thông thường về quyền sở hữu tài sản. Hậu quả ra sao có thể tạm ví von
bằng hình ảnh cuộc giao hoan giữa thần tiên và người thường, nhưng tiếc thay lại
sản sinh cho đời một quái vật, thay vì thánh nhân như mong đợi.
Đất đai là một thực thể pháp lý, còn ông chủ “toàn dân” trên
giấy tờ của nó chưa bao giờ là một chủ thể pháp lý, xét cả về công pháp lẫn tư
pháp. Vật sở hữu thì cụ thể, chủ sở hữu lại mơ hồ, thậm chí không tồn tại, nên
sở hữu toàn dân thực chất chỉ là một hư quyền. Trong khi đó, bên đại diện của
“toàn dân” là nhà nước, một thực thể chính trị và chủ thể công pháp hiện hữu cả
trên thực tế lẫn pháp lý, bằng hệ thống chính quyền của mình. Do đó, Nhà nước
CHXHCN Việt Nam với thực quyền sở hữu đất đai nghiễm nhiên trở thành giai cấp đại
địa chủ duy nhất và lớn nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Theo định chế quyền sử dụng đất, người sử dụng được luật
pháp công nhận đầy đủ các quyền tương tự quyền sở hữu các tài sản thông thường
khác, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt (chuyển nhượng,
tặng cho, thừa kế, v.v…). Tuy nhiên, sự định đoạt trong khuôn khổ quyền sử dụng
đất không phải là một quyền trọn vẹn như bản chất pháp lý vốn có của nó, mà
trái lại tùy thuộc vào quyết định tối hậu của nhà nước, người quản lý hiến định
của toàn bộ đất đai trên lãnh thổ quốc gia.
Tuy nắm trong tay quyền sử dụng đất, người nông dân lại
không toàn quyền định đoạt lợi ích từ mảnh đất của chính mình trên thực tế. Họ
khác gì các tá điền thời phong kiến? Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, suy cho
cùng chính là Tô Tá Khế, tức hợp đồng thuê đất canh tác dài hạn, mà tá điền phải
ký kết với địa chủ và trả tiền thuê đất dưới hình thức địa tô (mà giờ đây trá
hình dưới tên gọi “tiền sử dụng đất”).
Do vậy, có thể kết luận rằng tình trạng pháp lý của đất đai ở
Việt Nam hiện nay là “công hữu tư dụng”, theo đó nhà nước nắm trong tay quyền sở
hữu trên thực tế, còn nông dân chỉ được giao đất để sử dụng cho đến khi chính
quyền địa phương quyết định thu hồi có bồi thường dưới danh nghĩa “vì mục đích
phát triển kinh tế-xã hội”.
Hệ lụy của sở hữu
toàn dân
Định chế quyền sử dụng đất buộc toàn bộ đất đai thuộc quyền
tư hữu dưới các chính thể cũ phải đăng ký lại. Thủ tục đăng ký đó tuy nhiên vô
cùng phức tạp, không những kém hiệu quả và thiếu ổn định, mà còn gây tốn kém về
tiền bạc, thời gian và công sức cho người có quyền lợi liên quan. Ngoài ra còn
phải kể đến cả sự nhiêu khê và nạn nhũng nhiễu khi người dân muốn chuyển nhượng
đất.
Quan niệm về quyền sử dụng đất luôn giả định rằng việc sử dụng
một mảnh đất nào đó là do nhà nước giao cho nhằm thực hiện một mục đích cụ thể,
như canh tác nông nghiệp hay xây nhà xưởng. Hành động bán mảnh đất được hiểu là
người sử dụng không còn nhu cầu sử dụng nữa, nên bước đầu tiên cần làm là trả lại
mảnh đất đó cho nhà nước, để chính nhà nước giao lại quyền sử dụng đất cho người
mua.
Như vậy, thay vì giao dịch mua bán được tiến hành trực tiếp
giữa chủ đất và người mua, người ta phải thực hiện nhiều thủ tục vòng vo đầy
phiền toái. Các dự án sản xuất công nghiệp hoặc kinh doanh địa ốc thậm chí còn
nhiêu khê hơn nữa, vì bên mua còn phải tiến hành thêm thủ tục chuyển đổi mục
đích sử dụng đất, nếu mảnh đất trước đó dùng cho canh tác nông nghiệp.
Nghiêm trọng hơn là việc các quan chức địa phương nắm trong
tay đặc quyền quy hoạch sử dụng đất, thường lạm dụng quyền hành cấp đất để ưu
đãi các nhóm lợi ích và nhận hối lộ, trong khi việc bồi thường di dời cho nông
dân lại không thỏa đáng. Điều đó ngày càng trầm trọng và đã tạo nên bất mãn xã
hội ngày càng sâu rộng. Sự kiện Dương Nội, Tiên Lãng hay Đồng Tâm là những ví dụ
không bao giờ kể hết về phong trào dân oan và xung đột đất đai khắp cả nước.
Giải pháp
Quyền tư hữu tài sản là một quyền pháp lý tự nhiên mà con
người được hưởng theo luật tự nhiên (droit naturel). Luật tự nhiên là các quy
luật mặc nhiên chi phối cuộc sống cá nhân và đời sống xã hội, mà từ khi hiện hữu
con người đã phải chấp nhận và tuân hành. Muốn xã hội phát triển bình thường và
ổn định, thì luật thực tại (droit positif), vốn là sản phẩm của tư duy con người,
phải thuận theo lẽ trời đất, tức luật tự nhiên. Những hệ lụy của sở hữu toàn
dân, một khái niệm thuần túy chính trị, như nêu trên đều bắt nguồn từ nguyên
nhân sâu xa là luật thực tại trái với luật tự nhiên.
Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung được xây dựng trên nền
tảng lý luận Marx-Lenin, tư duy chính trị thắng thế nên sở hữu toàn dân đối với
đất đai không tạo ra nhiều vấn đề nan giải cho xã hội, vì khi ấy nền kinh tế được
hoạch định đơn giản và mọi bất đồng có thể giải tỏa bằng mệnh lệnh hành chính từ
nhà nước.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế được cải cách theo hướng thị trường,
yếu tố thị trường ngày càng chi phối sự phát triển, thì tư duy pháp lý tất yếu
trở nên thắng thế và đòi hỏi phải xem xét lại tính phù hợp của khái niệm sở hữu
toàn dân đối với đất đai. Cưỡng lại yêu cầu này khiến động lực phát triển kinh
tế bị triệt tiêu và ổn định xã hội bị đe dọa, như mọi người đều thấy rõ.
Do vậy, đã đến lúc phải từ bỏ khái niệm sở hữu toàn dân về đất
đai lỗi thời, và chấp nhận sửa đổi Hiến pháp để tư hữu hóa các loại đất dùng
vào mục đích dân sinh và kinh tế. Vấn đề cốt lõi ở đây vẫn là liệu nhà cầm quyền
dám từ bỏ tư duy lỗi thời, không còn thích hợp nữa hay không. Nếu không xã hội
sẽ ngày càng bất ổn thêm, mà điều đó thì hoàn toàn bất lợi cho chính đảng cầm
quyền, chứ không ai khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét