Sau vài tháng trong tình trạng không chắc chắn, Tổng thống Donald Trump đã làm lung lay những tham vọng của Trung Quốc. Trái ngược với hy vọng ban đầu, cảm giác vỡ mộng lan khắp Bắc Kinh. Đối với Bắc Kinh, sự thất vọng đến từ thực tế rằng Tổng thống Trump đã tỏ ra phức tạp hơn mức mà ban lãnh đạo Trung Quốc từng hy vọng có thể kiềm chế.
Giới thiệu
Năm 2012, vài tháng sau khi lên cầm quyền, Chủ tịch Tập Cận Bình đã đưa ra ý tưởng xây dựng “quan hệ nước lớn kiểu mới” với Mỹ để cố gắng đối trọng với “chiến lược tái cân bằng”, hay “xoay trục” về phía châu Á, của Tổng thống Obama. Ý tưởng này, mặc dù đã chính thức bị bác bỏ, là nhằm xây dựng một nhóm G2 với Washington, theo đó khẳng định sự nổi lên của Trung Quốc như là cường quốc thứ hai trên thế giới, thay thế Liên Xô trước đây với tư cách là đối tác/đối thủ quan trọng nhất của Mỹ. Yếu tố thiết yếu của quan hệ kiểu mới này là “tôn trọng lợi ích của nhau”, nghĩa là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc ở châu Á, và không can thiệp. Mục tiêu là nhằm giảm dần sự hiện diện an ninh của Mỹ ở khu vực này.
Tham vọng này dựa trên một phân tích đơn giản chi phối cộng đồng chiến lược Trung Quốc kể từ cuối những năm 2000: Cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế được thế giới biết đến vào năm 2008 đã dẫn đến sự kết thúc tính hợp pháp của mô hình phương Tây hay sự “đồng thuận Washington” và, ngược lại, sự thành công của mô hình đối trọng của Trung Quốc hay sự “đồng thuận Bắc Kinh”. Theo lối tư duy này, Mỹ và các nền dân chủ kiểu phương Tây, bị suy yếu do khủng hoảng, chỉ có thể công nhận và thích nghi với sự trỗi dậy không thể tránh khỏi của Trung Quốc. Tháng 10/2017, trong bài phát biểu khai mạc Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19 (Đại hội 19), Chủ tịch Tập Cận Bình cũng đã tuyên bố rằng “vị thế quốc tế của Trung Quốc đã được nâng lên đến mức chưa từng có” và rằng Trung Quốc phải tận dụng “thời cơ” vẫn để ngỏ cho các tham vọng của mình để khẳng định bản thân và được công nhận là một nước lớn. Vị thế này được phản ánh trong một bài phân tích được công bố ở phương Tây thể hiện sự đồng tình với quan điểm cho rằng Mỹ quả thực phải “thừa nhận có sự thay đổi khu vực và toàn cầu trong cán cân quyền lực”.
Tuy nhiên, sau vài năm phấn khích kể từ cuộc khủng hoảng năm 2008, ban lãnh đạo Trung Quốc dường như tập trung hơn vào những thách thức Trung Quốc đang phải đối mặt. Tăng trưởng kinh tế đã chậm lại kể từ năm 2010. Trung Quốc quả thực là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới; tuy nhiên, xét theo tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người, nước này vẫn bị tụt lại ở vị trí thứ 74. Trong khi đó, nhu cầu xã hội vẫn rất lớn và bất kỳ chiến lược nào nhằm tái cân bằng tăng trưởng dựa trên các quy tắc mới, tái phân phối nguồn lực và dẫn đến kết quả là tốc độ tăng trưởng còn chậm hơn nữa có thể gây nguy hại đến sự ổn định của chế độ.
Sự pha trộn giữa thái độ tự tin quá mức và nỗi lo ngại về tương lai này đã dẫn đến những lựa chọn chiến lược quyết đoán hơn ở cấp khu vực và toàn cầu, xoay quanh chủ đề “giấc mộng Trung Hoa” và “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa”. Nhằm đảm bảo quyền lực của mình và của Đảng Cộng sản, Tập Cận Bình đã đưa ra một chính sách đối ngoại hung hăng hơn cả ở cấp chiến lược lẫn ý thức hệ. Các dự án ngày càng dàn trải của Sáng kiến “Vành đai và Con đường”, như một mô hình đối trọng với phương Tây, đã được bổ sung vào các tham vọng và hoạt động của những người trước đó ủng hộ thuyết phục hồi lãnh thổ ở Biển Đông và biển Hoa Đông.
Sau vài tháng trong tình trạng không chắc chắn, Tổng thống Donald Trump đã làm lung lay những tham vọng này. Trái ngược với hy vọng ban đầu, cảm giác vỡ mộng lan khắp cả Wasington lẫn Bắc Kinh. Đối với Bắc Kinh, sự thất vọng đến từ thực tế rằng Tổng thống Trump đã tỏ ra phức tạp hơn mức mà ban lãnh đạo Trung Quốc từng hy vọng có thể kiềm chế, cho dù họ không quan tâm đến các nguyên tắc về ý thức hệ. Donald Trump giờ đây bị báo chí Trung Quốc chỉ trích là “không đáng tin cậy”.
Đối với Washington, việc Trung Quốc từ chối hay không có khả năng thực hiện lời hứa về 2 chủ đề lớn là thương mại và cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Triều Tiên đã dẫn đến những nghi ngờ hơn nữa về hiệu quả của chiến lược “can dự” đối với Trung Quốc. Sai lầm của Bắc Kinh là đánh giá thấp quyết tâm của Donald Trump trong việc đạt được những kết quả cụ thể vượt ra ngoài khuôn khổ đối thoại.
Cuộc gặp thượng đỉnh vào tháng 4/2017 tại Mar-A-Lago giữa Tổng thống Trump và Chủ tịch Tập Cận Bình được đánh dấu bởi sự mơ hồ này. Tập Cận Bình đã được tiếp đón bằng tất cả sự kính trọng, nhưng tuyên bố khá ngạo mạn, trong bữa tối chính thức, về các cuộc tấn công bằng tên lửa của Mỹ vào một căn cứ không quân của Syria cũng có tác dụng chứng tỏ sức mạnh và quyết tâm của Mỹ. Tương tự, trong buổi tiếp đón long trọng dành cho Tổng thống Trump tại Bắc Kinh hồi tháng 11/2017, những lời khen ngợi của Tổng thống Trump về việc Trung Quốc có khả năng bảo vệ lợi ích của chính mình gây bất lợi cho các nước khác chí ít cũng mơ hồ.
Tuy nhiên, căng thẳng ngày một gia tăng giữa Trung Quốc và Mỹ không phải là kết quả của một cuộc đối đầu không thể tránh được, “cái bẫy Thucydides” giữa một cường quốc mới nổi là Trung Quốc và một cường quốc đang suy thoái là Mỹ. Bất chấp những hạn chế của mình, Mỹ vẫn được nhìn nhận là nước có khả năng lớn nhất trong việc duy trì cán cân quyền lực khu vực và, ngược lại, cho dù không ngừng có các cơ hội dường như do Mỹ mang lại, Trung Quốc vẫn có khả năng gây mất ổn định và không thể giải quyết căng thẳng khu vực, ngay cả khi họ lôi kéo được đồng minh thân cận nhất của mình là Triều Tiên. Nghiêm trọng hơn đối với Bắc Kinh, như đã thấy ở cuộc khủng hoảng Triều Tiên, Trung Quốc không còn được các nước, kể cả những đồng minh thân cận nhất của họ, nhìn nhận là nước đảm bảo an ninh trong mọi hoàn cảnh trước những nghị quyết được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thông qua. Do đó, một trong những công cụ gây ảnh hưởng chính của Trung Quốc, ở trong và ngoài khu vực, đã bị thách thức.
Chấm dứt tình trạng không chắc chắn
Đối với Bắc Kinh, chiến dịch tranh cử và những tháng đầu sau khi Donald Trump đắc cử đều mở ra một thời kỳ không chắc chắn và hy vọng có thể thao túng một vị tổng thống cũng đáng khen khi không phải là tác giả của chiến lược xoay trục sang châu Á, bị các nhà chiến lược Trung Quốc coi là một thách thức lớn đối với những lợi ích của họ trong khu vực.
Ban đầu, và bất chấp tình trạng căng thẳng vốn đã rõ ràng về thương mại và vấn đề Đài Loan, Bắc Kinh có lẽ đã tin rằng chủ nghĩa thực dụng của Donald Trump, ý tưởng rằng mọi thứ cuối cùng cũng có thể đàm phán, sẽ mang lại cho Trung Quốc những cơ hội mới để xây dựng một mối quan hệ dựa trên sự “đối thoại, phối hợp và hợp tác”.
Đối với Bắc Kinh, chính sách “Nước Mỹ trước tiên” chỉ có thể dẫn đến một sự rút lui ở quy mô lớn hơn khỏi vũ đài quốc tế, kể cả vũ đài châu Á, để lại khoảng trống cho những tham vọng của Trung Quốc. Trung Quốc có thể cũng đã nghĩ rằng Washington – giống như các chính quyền khác – vẫn nhạy cảm trước sức ép của Trung Quốc. Sau 2 lần đăng trên trang Twitter rằng ông không nhất thiết bị ràng buộc bởi “chính sách một Trung Quốc” từng là cơ sở cho lập trường của Mỹ về Đài Loan và mối quan hệ của họ với Bắc Kinh kể từ năm 1979, Donald Trump đồng ý rút lui sau một cuộc điện đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình hôm 10/2/2017.
Tuy nhiên, vào tháng 6/2017, Donald Trump cũng đã đồng ý bán vũ khí cho Đài Loan với tổng giá trị 1,4 tỷ USD và, vào tháng 3/2018, ông đã không do dự chấp nhận mạo hiểm kích động Bắc Kinh bằng việc ký Đạo luật đi lại Đài Loan đã được Thượng viện bỏ phiếu. Tương tự, việc thiết lập các định dạng mới cho cuộc đối thoại giữa Bắc Kinh và Washington, được quyết định tại cuộc gặp cấp cao Mar-A-Lago hồi tháng 4/2017, hướng đến những kết quả cụ thể và những nhượng bộ ít ỏi mà Bắc Kinh đưa ra về thương mại song phương, với kế hoạch hành động 100 ngày, sớm tỏ ra là không đủ, ngay cả với hứa hẹn dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với thịt bò của Mỹ.
Bắc Kinh ban đầu hy vọng có thể dựa vào chủ nghĩa thực dụng của chính quyền mới, và mở ra những kênh liên lạc trực tiếp với tổng thống thông qua Henry Kissinger, người vẫn luôn rất gần gũi với chính quyền Trung Quốc kể từ những năm 1970, và đại sứ Trung Quốc tại Mỹ Thôi Thiên Khải, cả hai đều đang giữ vai trò trung gian cùng với Ivanka Trump và Jared Kushner, do đó thiết lập quan hệ kiểu Trung Quốc.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng ở Nga và việc Jared Kushmer bị gạt ra bên lề, cũng như một vài trường hợp chệch hướng trong êkíp của Donald Trump đã gây nghi ngờ về chiến lược gây ảnh hưởng này. Ngược lại, trong vài tháng qua, các cá nhân được biết đến là những người phản đối – ở cấp chiến lược cũng như cấp kinh tế – các tham vọng của Trung Quốc vẫn nắm quyền hoặc đã được lựa chọn để thay thế các quan chức có tư tưởng ôn hòa hơn.
Đây là trường hợp của Mike Pompeo, được chỉ định làm Ngoại trưởng hồi tháng 3/2018, có thể có ảnh hưởng đến trường hợp của Susan Thornton, thân cận hơn với Rex Tillerson, trong vai trò Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề châu Á, bị một số người chỉ trích là “quá mềm mỏng” đối với Trung Quốc. Việc chỉ định John Bolton làm Cố vấn an ninh quốc gia đã chứng thực lựa chọn đó.
Trong các vấn đề kinh tế, Peter Navarro – Trợ lý Tổng thống, người phụ trách Chính sách thương mại và công nghiệp, và là Giám đốc Hội đồng thương mại quốc gia của Nhà Trắng – cũng như Robert Lighthizer – người phụ trách các vấn đề kinh tế và Đại diện thương mại Mỹ – đều là đại diện cho các luồng dư luận thù địch nhất chống lại chủ nghĩa trọng thương của Bắc Kinh. Giám đốc Hội đồng kinh tế quốc gia Gary Cohn, từ chức hồi tháng 3/2018, cũng bị thay thế bởi Larry Kudlow, được biết đến là người có lập trường mạnh mẽ chống lại “chủ nghĩa dân tộc kinh tế” của Trung Quốc.
Năm 2010, tại một phiên điều trần trước Ủy ban đánh giá kinh tế và an ninh Mỹ-Trung, Robert Lighthizer tuyên bố rằng “Hệ thống kinh tế và chính trị Trung Quốc không tương thích với quan niệm của chúng ta về Tổ chức thương mại thế giới (WTO)”. Ông là người ủng hộ mạnh mẽ việc áp thuế trừng phạt đối với hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc được quyết định hồi tháng 3/2018.
Lợi ích chung có giới hạn và sự thiếu tầm nhìn chung
Ở cấp chiến lược, sự chú trọng đến các lợi ích chung, vấn đề Triều Tiên, Iran, các vấn đề môi trường và năng lượng hay thậm chí là khủng bố đã bị hạn chế đến mức trầm trọng kể từ khi Donald Trump lên nắm quyền. Năm 2017, Susan Thorton nhấn mạnh sự cần thiết phải “tăng cường hợp tác bất cứ ở đâu có thể”, giờ đây, đòi hỏi phải có các kết quả cụ thể dường như thắng thế.
Vấn đề Triều Tiên
Vấn đề Triều Tiên là điển hình nhất ở khía cạnh này. Sau khi chờ đợi sự ủng hộ tích cực hơn từ phía Bắc Kinh trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Triều Tiên, Donald Trump đã lựa chọn một chiến lược gây áp lực tối đa cứng rắn hơn nhiều, với việc đe dọa tấn công quân sự, bác bỏ nguyên tắc “kiên nhẫn chiến lược” mà người tiền nhiệm của ông bảo vệ. Sau vụ thử hạt nhân mạnh nhất của Triều Tiên mới đây vào năm 2017, theo sau là 2 vụ thử tên lửa liên lục địa có khả năng chạm tới lãnh thổ Mỹ, Mỹ đã gia tăng sức ép đối với các công ty Trung Quốc bị cáo buộc không tuân thủ các biện pháp trừng phạt đã được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhất trí bỏ phiếu thông qua. Sự thay đổi ngoạn mục trong năm 2018, khi nhà lãnh đạo Triều Tiên chấp nhận nguyên tắc về một cuộc gặp với Donald Trump, trên cơ sở phi hạt nhân hóa có thể diễn ra, đã khiến Bắc Kinh ngạc nhiên. Lo sợ bị xem là đứng ngoài lề, sau một cuộc điện đàm giữa Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Donald Trump, phía Trung Quốc đã nhấn mạnh rằng Mỹ sẵn sàng phối hợp với Trung Quốc. Lời mời vội vàng dành cho Kim Jong-un, vốn chưa từng được tiếp đón ở Bắc Kinh kể từ khi lên cầm quyền vào năm 2012, có cùng mục tiêu là cố gắng đưa Trung Quốc trở lại vị trí trung tâm cuộc chơi.
Tuy nhiên, đằng sau những sáng kiến này cũng có sự thất bại của những lập trường mơ hồ của Trung Quốc, không thể bỏ rơi đồng minh Triều Tiên của mình, nóng lòng muốn duy trì sự tồn tại của một nước đệm và quan tâm hơn đến việc Mỹ rút khỏi khu vực, kể cả thông qua việc ủng hộ khôi phục một cuộc đối thoại dựa trên kế hoạch “đóng băng kép” việc thử hạt nhân của Triều Tiên để đổi lấy “những đảm bảo an ninh”, trong đó có việc giảm bớt sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực.
Ngay cả bây giờ, Trung Quốc cũng muốn khôi phục một kiểu đối thoại nào đó, theo phương thức đàm phán 5 hay 6 bên, cho dù thực tế là kể từ vòng đàm phán đầu tiên diễn ra vào năm 2003, không có kết quả cụ thể nào đạt được ngoại trừ việc hạt nhân hóa hoàn toàn của chế độ Triều Tiên.
Các vấn đề hàng hải
Ở Biển Đông, mặc dù căng thẳng đã bớt gay gắt vào năm 2017, vì Trung Quốc không chiếm đóng các cấu trúc địa hình mới, nhưng Mỹ đã tiếp tục trở lại các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) vào tháng 5/2017 để ủng hộ hơn nữa quyết tâm của Mỹ đối phó với những thách thức của Trung Quốc đối với luật pháp quốc tế và các FONOP ở biển khơi. Washington cũng tái khẳng định sự ủng hộ của họ đối với phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế La Hay bác bỏ các tuyên bố lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông và chỉ trích bất kỳ hành động ép buộc nào nhằm thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực. Cuối cùng, khi đối mặt với sự trỗi dậy của hải quân Trung Quốc – và các đơn vị bảo vệ bờ biển của họ – Mỹ cũng lựa chọn tiếp tục tăng cường sự hiện diện quân sự của mình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, với việc phái 2 nhóm tàu sân bay đến khu vực này vào năm 2017, trong bối cảnh khủng hoảng với Triều Tiên cũng như căng thẳng với Trung Quốc.
Bắc Kinh chỉ trích việc phổ biến các FONOP ở Biển Đông, cũng như việc ủng hộ Nhật Bản – và Đài Loan – đang phải đối mặt với các cuộc tấn công bất ngờ của hải quân Trung Quốc, coi đó là nhân tố chính sẽ phá hoại “lòng tin chiến lược” giữa Mỹ và Trung Quốc. Và vào mùa Xuân năm 2018, hải quân Trung Quốc đã tổ chức cuộc tập trận lớn nhất của họ trong khu vực.
Một yếu tố khác rất quan trọng đối với Nhật Bản, nước có lẽ lo ngại không có sự can dự của Mỹ vào các kịch bản xung đột ở những “vùng xám” với Trung Quốc, là Tổng thống Mỹ đã khẳng định trong các cuộc hội đàm của ông với Thủ tướng Shinzo Abe hồi tháng 4/2017 – như người tiền nhiệm của ông từng làm trong một vài dịp – rằng quần đảo Senkaku (Điếu Ngư), mà Trung Quốc cũng tranh giành chủ quyền với nhiều lần xâm phạm các vùng biển trong khu vực hoặc các vùng biển lân cận bằng lực lượng dân quân bảo vệ tàu đánh bắt cá, cảnh sát biển và hải quân Quân giải phóng nhân dân, được đề cập trong Điều 5 của Hiệp ước hợp tác và an ninh Nhật-Mỹ.
Tầm nhìn chiến lược có mâu thuẫn
Ở cấp độ lớn hơn, tầm nhìn chiến lược của Mỹ về Trung Quốc đã trở nên cứng rắn. Được công bố vào đầu năm 2018, Chiến lược an ninh quốc gia mới của Mỹ chỉ trích Trung Quốc là một cường quốc “theo chủ nghĩa xét lại” có mục tiêu là đuổi Mỹ ra khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương và làm suy yếu các đồng minh của Washington trong khu vực bằng các chiến lược kinh tế “trục lợi”.
Về hệ thống liên minh và chính sách tái cân bằng đối với châu Á, việc tiếp tục dường như chiếm ưu thế với cam kết thậm chí còn lớn hơn, đặc biệt về năng lực quân sự. Điều này cũng đi ngược với hy vọng của Trung Quốc là chứng kiến Mỹ rút khỏi vũ đài châu Á để quay trở lại Trung Đông, Iraq và Afghanistan.
Tầm quan trọng của các liên minh không chỉ với Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc mà cả với Philippines cũng như sự hợp tác với Thái Lan hay Singapore – bị Trung Quốc chỉ trích là “lỗi thời và được thừa hưởng từ cuộc Chiến tranh Lạnh” – được tái khẳng định trong một vài dịp bởi Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis, Chủ tịch Hội đồng An ninh quốc gia Henry McMaster và bởi chính Tổng thống Trump trong chuyến công du dài ngày của ông đến châu Á hồi tháng 11/2017.
Là biểu hiện cụ thể của khái niệm khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương – bắt chước khái niệm “kim cương an ninh” của Thủ tướng Shinzo Abe được đưa ra vào năm 2012 – hội nghị 4 bên (Bộ tứ) đầu tiên đưa Mỹ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ đến với nhau đã diễn ra vào tháng 11/2017 trong thời gian Tổng thống Trump có chuyến công du đến châu Á. Là một cường quốc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương có lãnh thổ ở cả 2 đại dương, Pháp đã bày tỏ sự quan tâm của mình sau chuyến thăm của Tổng thống Macron đến Ấn Độ hồi tháng 3/2018. Mục tiêu là nhằm nâng cao sự an toàn cho các tuyến liên lạc trên biển trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, củng cố hơn nữa sự tôn trọng đối với luật biển và thúc đẩy việc xây dựng năng lực và hợp tác về hậu cần và khả năng tiếp cận các cảng, nhằm đối phó với khái niệm “Con đường tơ lụa trên biển” của Trung Quốc như là một phần của chiến lược lớn Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của họ.
Mạng lưới các liên minh dựa trên các giá trị chung
Ngay cả khi Trung Quốc giờ đây cũng là nước ủng hộ chủ nghĩa đa phương, ít nhất là bề ngoài, và cho dù nước này không chú trọng đến nhân quyền, thì hệ thống liên minh của Donald Trump ở châu Á vẫn dựa trên các “giá trị chung” được nhìn nhận là phù hợp nhất với sự ổn định kinh tế và chiến lược. Trong bài phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á (APEC) diễn ra ở Đà Nẵng vào tháng 11/2017, Donald Trump đã bảo vệ một “khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở” coi đó như một sự lựa chọn thay thế cho “giấc mộng Trung Hoa” của Sáng kiến “Vành đai và Con đường” dựa trên tầm nhìn mang tính phân cấp cao độ về mối quan hệ giữa các nước. Trước quan niệm về thế giới – hay ít nhất là khu vực – lấy Trung Quốc làm trung tâm này, Mỹ và các đồng minh của Mỹ phản đối một khái niệm giống như mạng lưới theo chủ nghĩa quân bình nhiều hơn mà cũng ám chỉ các trách nhiệm chung ở cấp độ cao hơn.
Mạng lưới các liên minh và quan hệ đối tác này đã tìm được sức sống mới bằng cách bao gồm cả Ấn Độ, vốn đã phải đối mặt với tình trạng căng thẳng kéo dài nhiều tuần với Trung Quốc trong năm 2017 tại khu vực Doklam bất chấp sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày một gia tăng giữa 2 nước.
Mạng lưới này cũng đối phó với chiến lược hàng hải mới của Trung Quốc “về 2 đại dương”, mà mục tiêu của nó là nhằm tăng cường năng lực triển khai của Hải quân Quân giải phóng nhân dân về phía Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Việc mở cơ sở hậu cần ở Djibouti vào năm 2017 và việc phát triển hợp tác với Sri Lanka, Pakistan hay Maldives, thông qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng cảng biển, cũng là những dấu hiệu rõ rệt của tham vọng bành trướng trên biển của Trung Quốc.
Ngoài năng lực hàng hải đơn thuần, Trung Quốc cũng đang tiếp tục phát triển năng lực chống tiếp cận của họ nhằm hạn chế sự can thiệp của Mỹ vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trước việc Trung Quốc tiếp tục phát triển năng lực quân sự của mình – với mức tăng ngân sách là 8,2%, đạt 175 tỷ USD vào năm 2018 – cũng như mối đe dọa Triều Tiên sát sườn hơn, Mỹ tiếp tục ủng hộ việc triển khai các hệ thống chống tên lửa ở châu Á. Việc này bao gồm cả Hàn Quốc bất chấp việc Moon Jae-in, được biết đến là người có lập trường thận trọng hơn về sự hiện diện quân sự của Mỹ, đắc cử tổng thống.
Bất chấp sức ép mạnh mẽ của Trung Quốc, dưới dạng chiến tranh thương mại vào năm 2017, Hàn Quốc vẫn tiếp tục triển khai trên lãnh thổ của mình Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD), điều đã được quyết định vào năm 2016. Về phần mình, Nhật Bản cũng đang tăng cường hợp tác phòng thủ với Mỹ, đạt được các năng lực nhằm đáp ứng tốt hơn mong muốn của Washington về việc mua sắm vũ khí, hợp tác công nghệ và phòng thủ chung.
Sẵn sàng cho một cuộc chiến thương mại chính thức
Cuối cùng, vấn đề thương mại đã trở thành một trong những vấn đề kiện tụng lớn giữa Bắc Kinh và Washington. Ứng cử viên Trump đã đắc cử nhờ vào lập trường bảo hộ, bảo vệ các ngành công nghiệp và công ăn việc làm của Mỹ, và cáo buộc các nước “trục lợi” lợi dụng nền kinh tế cởi mở của Mỹ, trong đó có Trung Quốc. Việc đánh thuế 45% đối với hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc là một trong những hứa hẹn của ông trong chiến dịch tranh cử.
Nếu trong những tháng đầu nhiệm kỳ Tổng thống Donald Trump dường như nôn nóng muốn “đạt được một thỏa thuận” với Bắc Kinh, đặc biệt dưới sức ép của các nhóm lợi ích nhất định – trong đó có các nhà bán lẻ công nghiệp và đại trà trong lĩnh vực điện tử tiêu dùng – mà đã phát triển trong sự hiệp lực và nhờ vào những đặc trưng của chế độ Trung Quốc, thì sự vỡ mộng về khu vực này cũng như về Triều Tiên đã lan tràn và Donald Trump đã lựa chọn chấp nhận mạo hiểm mà phát động một cuộc chiến thương mại với Bắc Kinh.
Ban đầu, biện pháp dễ thấy nhất, do nó cũng ảnh hưởng đến các đối tác lớn của Washington, là quyết định của Mỹ áp đặt mức thuế 25% và 10% tương ứng đối với các sản phẩm thép và nhôm nhập khẩu.
Nhưng hậu quả đáng kể nhất đối với Bắc Kinh chắc chắn là việc kích hoạt trở lại Mục 301 của Đạo luật thương mại năm 1974 về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, vốn trực tiếp nhắm vào “chủ nghĩa dân tộc công nghệ” của Trung Quốc mà tính độc đoán của nó giúp nước này có thể huy động tất cả mọi phương tiện cần thiết để đạt được các mục tiêu được trình bày chi tiết trong kế hoạch “Made in China năm 2025”.
Kế hoạch này, được công bố vào năm 2015, tập trung vào các bước “đại nhảy vọt” về công nghệ trong các ngành công nghệ cao, bao gồm viễn thông, mạng và trí tuệ nhân tạo, kể cả việc thông qua các cuộc chuyển giao công nghệ từ các công ty nước ngoài muốn đầu tư vào Trung Quốc. Kế hoạch này, cũng như toàn bộ kế hoạch nghiên cứu và phát triển ở Trung Quốc, sở hữu một khía cạnh quan trọng là sự phát triển kép công nghệ quân sự cũng như công nghệ dân sự.
Kết quả là, Donald Trump cũng công bố những khoản thuế mới đối với các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc trong khu vực công nghệ cao và viễn thông, có nguy cơ tác động đến lợi ích của các công ty lớn của Mỹ có cơ sở sản xuất chính vẫn ở Trung Quốc.
Bất chấp tầm quan trọng của những biện pháp này, phản ứng của Trung Quốc ban đầu là khá thận trọng. Trung Quốc chẳng những chưa hoàn thành việc tái cân bằng nền kinh tế mà còn tiếp tục phụ thuộc vào hàng hóa xuất khẩu sang các thị trường phát triển lớn, trước tiên là thị trường Mỹ, mà tiếp nhận 18,3% hàng xuất khẩu của Trung Quốc.
Vì vậy, Bắc Kinh chủ trương giải quyết căng thẳng “thông qua đàm phán”, tránh một cuộc chiến thương mại. Chính quyền Trung Quốc đã cử 2 phái viên đều là ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ sang Washington – Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì và cố vấn kinh tế của Chủ tịch Tập Cận Bình Lưu Hạc. Đối với các nhà phân tích Trung Quốc, quyết định cử các phái viên cấp cao như vậy là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc sẵn sàng nhượng bộ trong một lĩnh vực mang tính sống còn đối với nền kinh tế và sự ổn định xã hội của mình, và là lĩnh vực mà Trung Quốc, một nước xuất khẩu lớn, dễ bị tổn thương hơn nhiều so với Mỹ. Mong đợi này dựa vào thực tế rằng kể từ khi gia nhập WTO vào năm 2001, Trung Quốc chưa bao giờ thực sự có nghĩa vụ phải thực hiện những hứa hẹn đã đưa ra và có lẽ hy vọng tình trạng này tiếp diễn.
Tuy nhiên, với những tuyên bố mới của Donald Trump về việc xem xét tăng thuế tới mức 100 tỷ USD đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc, ban lãnh đạo Trung Quốc đã phản ứng mạnh mẽ hơn. Chiến lược “người hùng” của Chủ tịch Tập Cận Bình, uy tín cá nhân của ông và của chế độ không cho phép Trung Quốc không đưa ra phản ứng gì trước động thái “làm nhục” này của Mỹ. Bất chấp thực tế rằng nền kinh tế của chính họ và khu vực nông nghiệp dễ bị tổn thương nhất (nhưng khó có thể nhận thấy hơn) có thể chịu ảnh hưởng nặng nề của những quyết định đó, Trung Quốc đã tuyên bố áp đặt mức thuế 25% đối với một loạt hàng hóa nhập khẩu của Mỹ là thịt lợn, các loại hạt, hoa quả, rượu và vài ngày sau đó là đậu tương.
Tuy vậy, dường như những tuyên bố và biện pháp này về cơ bản là một phần của chiến thuật đàm phán. Tuy nhiên, với giọng điệu hung hăng và tham vọng hơn, tờ Thời báo Hoàn cầu, trong phiên bản tiếng Trung, đã kêu gọi “đoàn kết xung quanh đảng cộng sản và nhà nước” để Trung Quốc chiến thắng trong cuộc chiến thương mại này, thêu dệt rằng phía Mỹ dựa vào “vũ lực” còn Trung Quốc dựa vào “ý chí”. Tờ báo này cũng nhấn mạnh thực tế rằng “tương lai ở phía Trung Quốc” để gạt bỏ mọi nghi ngờ về khả năng Trung Quốc giành chiến thắng trong một “cuộc chiến thương mại thế giới”.
Kết luận
Mặc dù gặp nhiều thất bại, nhưng Bắc Kinh từ lâu đã lựa chọn chú trọng vào những lợi ích chung giữa 2 cường quốc đầu tiên trên thế giới. Vấn đề cũng liên quan tới việc củng cố uy tín của chế độ, khi phải đối mặt với dư luận Trung Quốc ngày càng chán ngấy giọng điệu nước lớn của Chủ tịch Tập Cận Bình. Tuy nhiên, bất chấp những sự không chắc chắn vây quanh tương lai của Tổng thống Trump, điều nổi bật hiện nay là những khác biệt lớn giữa một bên là Mỹ và đồng minh của Mỹ với một bên là Trung Quốc.
Điều đáng lo ngại hơn đối với Trung Quốc là ranh giới này dường như loại trừ Triều Tiên, vốn đã nhìn thấy cơ hội giành lại quyền tự trị ở mức độ nào đó so với một Trung Quốc quá tự tin, chứng tỏ sự thiếu hiệu quả của các lựa chọn chính sách đối ngoại của Bắc Kinh.
Một cuộc “chiến tranh lạnh” mới sẽ là không phù hợp để mô tả đặc điểm của quan hệ Trung-Mỹ, cho dù căng thẳng gia tăng. Điều không thể phủ nhận là khía cạnh ý thức hệ của căng thẳng này đã gia tăng, khi 2 mô hình toàn cầu đối lập nhau, cho dù thực tế là sức hấp dẫn của Trung Quốc gần như chỉ phụ thuộc vào khả năng đầu tư ồ ạt, mà hầu như không có câu hỏi nào được đưa ra, ở những nước yếu ớt và bị cô lập.
Sau nhiều năm theo đuổi chủ nghĩa thực dụng, sau chính sách cải cách mà Đặng Tiểu Bình đưa ra vào năm 1979, Tập Cận Bình đã lựa chọn chú trọng trở lại vào ý thức hệ và vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, vẫn có những câu hỏi về chiến lược của Mỹ ở khu vực. Câu hỏi về sự can dự dài hạn vẫn được đưa ra, ngay cả khi nó đã được giải đáp phần nào, theo một cách tích cực, sau chuyến công du dài ngày của Donald Trump đến khu vực này. Như đã thấy trong cách xử sự trước những diễn biến gần đây nhất giữa Bình Nhưỡng và Washington, Bắc Kinh sẽ sẵn sàng hành động để không bị loại ra khỏi bất kỳ giải pháp nào trên bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc sẽ cố gắng gây chia rẽ giữa các đồng minh và dùng mọi đòn bẩy sẵn có, đặc biệt là ở cấp độ kinh tế.
Ngoài ra, sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) – có thể được Tổng thống Donald Trump xem xét lại sau khi nhận được sự khuyến khích từ phía các đồng minh của ông trong khu vực – hay vấn đề biến đổi khí hậu, Trung Quốc đã đạt được một số thành công trong khi cố gắng xác lập vị thế của mình là một bên tham gia “có trách nhiệm” cam kết ủng hộ chủ nghĩa đa phương, cho dù cam kết này vẫn giới hạn ở việc bảo vệ lợi ích của Trung Quốc và xây dựng một hình ảnh tích cực.
Tại hội nghị về biến đổi khí hậu tổ chức vào tháng 11/2017 tại Bonn, đại diện Trung Quốc đã tuyên bố rằng Trung Quốc vẫn sẽ là “bên bảo vệ tiến trình đa phương”. Tại Davos, vào tháng 1/2017, Tập Cận Bình, bất chấp quyền kiểm soát kinh tế ngày một gia tăng của đảng cộng sản, đã ủng hộ toàn cầu hóa chống lại chủ nghĩa đơn phương của Mỹ.
Tuy nhiên, thị trường Trung Quốc vẫn khó tiếp cận và về vấn đề biến đổi khí hậu, Trung Quốc, bất chấp những tuyên bố của họ về việc ủng hộ Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu được tổ chức tại Paris (COP21), vẫn chống lại các nguyên tắc về một quy tắc chung và những hạn chế như nhau đối với tất cả các nước, dựa trên các số liệu có thể xác minh.
Cuối cùng, về vấn đề thuế thép và nhôm được nhắm mục tiêu bừa bãi, cho dù các nước như Canada hay Úc có được miễn trừ, Trung Quốc được trao một công cụ hữu ích để dùng thử và phá hoại bất kỳ chiến lược mặt trận thống nhất nào xoay quanh Mỹ bằng việc chia tách các nước châu Âu, bất chấp thực tế rằng những nước này bị lôi kéo vào các hành động chung với Washington về các vấn đề thâm hụt thương mại, chuyển giao công nghệ và đầu tư trong các khu vực nhạy cảm.
Nếu chiến lược của Donald Trump ở châu Á, đối với Triều Tiên và Trung Quốc có thể được xem là tích cực, thì kết quả vẫn còn mong manh, phụ thuộc vào khả năng tổng thống Mỹ – và êkíp của ông – trung thành với tầm nhìn chiến lược rộng lớn hơn mà không chỉ tập trung vào “Nước Mỹ trước tiên”. Nếu các nước đồng minh không có được sự đảm bảo đầy đủ, thì tình trạng không chắc chắn này chỉ có thể làm suy yếu một khu vực vẫn phụ thuộc vào Mỹ vì sự ổn định và an ninh của họ.
Valérie Niquet, Nghiên cứu viên liên kết cao cấp tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Nhật Bản (JIIA), Giám đốc Chương trình Châu Á, Quỹ Nghiên cứu Chiến lược. Bài viết được đăng trên Japan Review.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét