Những phát biểu thể hiện lập trường
cứng rắn trước Trung Quốc của Donald Trump cho thấy rằng vị tổng thống này dù
thiếu nhạy bén về ngoại giao nhưng hoàn toàn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng hiện
nay Trung Quốc chứ không phải Nga, mới là đối thủ chiến lược số một của Mỹ. Do
đó, tuy Trump đã “giết chết” Hiệp định TPP
và Bộ Ngoại giao Mỹ mới đây đã tuyên bố chấm dứt chiến lược “xoay trục về
Châu Á” mà Obama đã khởi xướng nhưng nhiều khả năng chính quyền Trump vẫn sẽ tiếp
tục theo đuổi những đường lối chính được vạch ra trong chiến lược xoay trục bởi
những lợi ích quốc gia cơ bản của Mỹ ở Châu Á vẫn chưa hề thay đổi.
Từ góc nhìn của Bắc Kinh, rõ ràng
những động thái chính trị – ngoại giao của Mỹ trong thời gian gần đây thể hiện
ý đồ ngăn chặn Trung Quốc mở rộng sức ảnh hưởng ở Châu Á của Mỹ. Tuy chính phủ
Mỹ từ trước tới giờ đều phủ nhận điều này nhưng trên thực tế quan điểm cho rằng
Mỹ cần phải kiềm chế Trung Quốc đã và đang nhận được nhiều sự ủng hộ của các học
giả và nhà nghiên cứu chính sách ở Mỹ trong những năm gần đây. Nhưng liệu kiềm
chế Trung Quốc có phải là cách thức tốt nhất để Mỹ duy trì vị thế độc tôn hiện
nay của mình ở Châu Á hay không?
Để trả lời câu hỏi trên, bài viết
này của tác giả đưa ra hai luận điểm chính. Một là, cần phân biệt rõ ràng hai mục
tiêu sau: (1) kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc và đánh bại tham vọng bá quyền
(hegemonic ambition) của Trung Quốc ở Châu Á nói chung và (2) ngăn chặn các nỗ
lực đơn phương nhằm mở rộng lãnh thổ (territorial expansion) của Trung Quốc ở
Biển Đông. Hai là, trong tương lai gần, chỉ có mục tiêu ngăn chặn bành trướng
lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông là thật sự cần thiết và khả thi.
Chính sách kiềm chế: xưa và nay
Cha đẻ của chính sách kiềm chế
trong Chiến tranh Lạnh là nhà ngoại giao Mỹ George Kennan – tác giả của “Bức điện
dài” (Long Telegram) và bài viết “Nguồn gốc hành vi của Liên Xô” (Sources of
Soviet Conduct) lừng danh. Trong hai bài viết kinh điển này, Kennan đã lập luận
rằng nguồn gốc của mâu thuẫn Mỹ-Xô chủ yếu xuất phát từ tư duy đối ngoại dựa
trên nỗi bất an truyền thống của người Nga trước các mối đe doạ từ bên ngoài. Để
bảo vệ lãnh thổ rộng lớn mênh mông của mình, các nhà lãnh đạo Nga từ trước tới
giờ luôn phải đề phòng, cảnh giác trước mọi mối hiểm hoạ lớn nhỏ. Vì vậy người
Nga không có văn hoá thoả hiệp như người Mỹ-Anh mà thay vào đó có tư duy chiến
đấu “một mất, một còn” để đảm bảo an ninh. Do đó, theo Kennan, cách tốt nhất để
Mỹ đối phó với Liên Xô là thực thi một chiến lược kiềm chế kiên trì và dài hạn
với mục tiêu chính là ngăn chặn khuynh hướng bành trướng của Liên Xô ở phạm vi
toàn cầu, đặc biệt là ở các trận địa trọng yếu như Tây Âu và Đông Á.
Tại thời điểm đó, Kennan cho rằng
nếu Mỹ có thể áp dụng triệt để chiến lược này với Liên Xô một cách lâu dài và bền
bỉ thì hệ thống Liên Xô sẽ từ từ suy yếu và tan rã. Có lẽ đây cũng là mong muốn
của những người đang kêu gọi Mỹ kiềm chế Trung Quốc, mà trong đó GS. John
Mearsheimer (ĐH Chicago) là một trong những tiếng nói có trọng lượng và uy tín
nhất. Là người sáng lập ra trường phái tân hiện thực tấn công (offensive
realism), Mearsheimer cho rằng mọi cường quốc đều theo đuổi mục tiêu tối đa hoá
quyền lực của mình bởi trong một thế giới vô chính phủ (anarchy), quốc gia nào
càng mạnh thì càng đảm bảo được an ninh của mình. Theo ông, một quốc gia sẽ chỉ
thực sự an toàn trong một thế giới vô chính phủ khi nó là bá quyền (hegemon)
duy nhất trong hệ thống. Khi mà Mỹ đang là bá quyền duy nhất hiện nay rồi và
Trung Quốc có tham vọng trở thành bá quyền thứ hai ở Châu Á thì rõ ràng xung đột
lợi ích giữa hai bên là không thể tránh khỏi.
Những học giả có khuynh hướng “diều
hâu” như Mearsheimer cho rằng Trung Quốc càng mạnh thì định nghĩa vệ lợi ích quốc
gia của nước này càng rộng. Theo lẽ tự nhiên, Trung Quốc sẽ muốn có nhiều sự tự
do để tùy ý hành động và muốn có nhiều sự kiểm soát hơn đối với các khu vực kế
cận để đảm bảo an ninh của mình. Trên thực tế, các nhà lãnh đạo Bắc Kinh đã cho
thấy tham vọng xây dựng một “hạm đội hải dương xanh” đủ mạnh để có thể bảo vệ
vùng nước duyên hải Trung Quốc đồng thời kiểm soát được những vùng biển trọng yếu
nhất trên thế giới như hải quân Mỹ đang làm. Trong khi đó, Trung Quốc vẫn đang
phát triển các vũ khí “chống tiếp cận” (anti-access), nhằm giới hạn tầm hoạt động
của quân đội Mỹ ở Châu Á và làm suy yếu khả năng răn đe của Mỹ, đặc biệt trong
phạm vi chuỗi đảo thứ nhất (first island chain) trải dài từ đảo Okinawa ở Nam
Nhật Bản cho tới Biển Đông.
Bản đồ Chuỗi đảo thứ nhất và thứ
hai ở Châu Á. Nguồn: Tragedy of Great Power Politics (Mearsheimer, 2014)
Trong một tương lai xa hơn, khi
Trung Quốc đã đủ mạnh về cả mặt kinh tế lẫn quân sự rồi, rất có thể nước này sẽ
dùng thế mạnh quân sự của mình để uy hiếp các đồng minh Mỹ trong khu vực, đẩy Mỹ
vào tình thế rất khó: một là bảo vệ đồng minh và chấp nhận rủi ro chiến tranh với
Trung Quốc, hai là bỏ rơi các đồng minh của mình và đối mặt với nguy cơ toàn bộ
hệ thống liên minh toàn cầu của mình bị tan rã. Dù trường hợp nào xảy ra đi nữa
thì đây cũng là một viễn cảnh thua-thua cho phía Mỹ. Hơn nữa, một khi Trung Quốc
trở thành một siêu cường toàn cầu như Mỹ, rất có thể nước này sẽ can thiệp vào
khu vực Châu Mỹ, đặc biệt là Nam Mỹ, vốn là sân sau của Mỹ. Điều này sẽ buộc Mỹ
phải phân tán sự tập trung và lực lượng của mình, do đó làm suy yếu các cam kết
an ninh của Mỹ ở các khu vực trọng yếu khác.
Dù bá quyền Trung Quốc có thân
thiện (benign) đi chăng nữa, một nước Trung Quốc hùng mạnh vẫn là cái gai trong
mắt của Mỹ bởi Bắc Kinh sẽ có tiếng nói quyết định trong những vấn đề ở Châu Á.
Nếu như vậy thì Mỹ sẽ càng trở nên phụ thuộc vào Trung Quốc để đạt được những mục
tiêu quan trọng của mình như phi hạt nhân hoá Bán đảo Triều Tiên, v.v… Do đó, sự
trỗi dậy của Trung Quốc trong bất kì trường hợp nào vẫn là mối đe doạ lớn đối với
lợi ích cốt lõi của Mỹ là duy trì vị thế siêu cường độc tôn của mình ở Châu
Á-Thái Bình Dương.
Trên cơ sở đó, Mearsheimer đề xuất
phía Mỹ triển khai chiến lược kiềm chế tương đối giống với những gì Mỹ đã thực
hiện trong suốt chiều dài của Chiến tranh Lạnh để đối phó với Liên Xô. Cụ thể
hơn, Mearsheimer cho rằng Mỹ cần xây dựng một tập hợp lực lượng để tạo ra đối
trọng với Trung Quốc. Nói cách khác, Mỹ cần phải dẫn đầu một liên minh các quốc
gia chống lại Trung Quốc bằng việc nâng cao năng lực quốc phòng cho những nước
láng giềng đang có mâu thuẫn với Trung Quốc và thậm chí can thiệp quân sự để hỗ
trợ những nước này nếu không còn lựa chọn nào khác.
Kiềm chế Trung Quốc: Nhiệm vụ bất
khả thi?
Có hai câu hỏi lớn có thể đặt ra
đối với khuyến nghị chính sách trên. Một là, liệu kiềm chế thành công Trung Quốc
có phải là một nhiệm vụ khả thi hay không? Nói cách khác, Mỹ có thể áp dụng được
chiến lược này để ngăn chặn Trung Quốc như họ đã từng làm với Liên Xô trong Chiến
tranh Lạnh hay không? Hai là, giả sử việc kiềm chế Trung Quốc khả thi đi nữa
thì liệu kiềm chế Trung Quốc có phải là một hành động cần thiết để Mỹ bảo vệ lợi
ích của mình ở Châu Á hay không? Theo quan điểm của tác giả, câu trả lời cho cả
hai câu hỏi trên đều là: không.
Xét về tính khả thi và hiệu quả,
cần phải nhìn nhận một cách thẳng thắn rằng một chiến lược kiềm chế toàn diện sẽ
có tổn phí rất lớn trong khi nhiều khả năng sẽ không có tác dụng đối với Trung
Quốc.
Thứ nhất, chỉ vì chính sách kiềm
chế có tác dụng trong Chiến tranh Lạnh không có nghĩa là ngày nay nó sẽ có hữu
hiệu đối với Trung Quốc vì thời thế đã thay đổi và Trung Quốc không phải là
Liên Xô. Trung Quốc ngày nay tuy là một cường quốc hạt nhân và là cường quốc
quân sự thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ, nhưng ít ra tại thời điểm này nó chưa
trở thành một “đế chế” với tham vọng toàn cầu như Liên Xô. Trung Quốc chưa tìm
kiếm đồng minh để chống Mỹ, cũng chưa đưa quân can thiệp vào sân sau của Mỹ như
Liên Xô đã từng làm. Trung Quốc cũng chưa có một hệ tư tưởng với sức hút toàn cầu
hay một mô hình phát triển đủ hấp dẫn để lôi kéo các quốc gia ra khỏi trật tự
thế giới Mỹ. Mặt khác, nền kinh tế Trung Quốc và Mỹ lại có sự lệ thuộc rất lớn
vào nhau và Trung Quốc là bạn hàng lớn nhất của rất nhiều các nước Châu Á nên
việc kiềm chế Trung Quốc sẽ có tổn phí rất cao mà khó mang lại hiệu quả.
Hơn nữa, cần nhớ rằng để Mỹ có thể
kiềm chế được Trung Quốc thì nước này buộc sẽ phải nhận được sự hợp tác từ các
quốc gia láng giềng của Trung Quốc. Tuy nhiên trên thực tế thì gần như chẳng có
nước nào hiện nay sẵn sàng đứng về phe Mỹ và chống Trung Quốc một cách tuyệt đối.
Kể cả những nước bị đe doạ an ninh nghiêm trọng nhất nếu Trung Quốc độc chiếm
được Biển Đông như Việt Nam hay Philippines cũng vẫn chưa sẵn sàng để làm điều
này. Dù quan hệ Việt-Mỹ đã trở nên nồng ấm hơn rất nhiều trong những năm gần
đây, Hà Nội vẫn chưa cho phép hải quân Mỹ sử dụng quân cảng Cam Ranh như một
căn cứ quân sự, càng chưa sẵn sàng tham gia vào một liên minh chống Trung Quốc
với Mỹ.
Đồng minh Philippines của Mỹ dưới
thời Tổng thống Duterte tuy sẽ không cắt đứt quan hệ với Mỹ nhưng đã cho thấy rằng
họ sẵn sàng hàn gắn quan hệ với Trung Quốc sau những bước đi cứng rắn của chính
quyền Aquino, dù điều này làm phật lòng Mỹ. Vì vậy, nếu chiến lược kiềm chế mà
Mearsheimer đề xuất yêu cầu Mỹ xây dựng một cấu trúc liên minh tựa như NATO ở
Châu Á thì gần như nó sẽ chắc chắn thất bại bởi những đối tượng hiện nay có nhiều
lý do nhất để tham gia vào liên minh này cũng là những nước lệ thuộc vào Trung
Quốc nhiều nhất và muốn tránh chọc giận Bắc Kinh nhất.
Hơn nữa, bản thân các sử gia vẫn
còn tranh luận về tính hiệu quả của chiến lược kiềm chế trong Chiến tranh Lạnh.
Nếu như ngày đó Tổng bí thư Andropov rồi Chernenko không lần lượt ra đi để
Gorbachev lên nắm quyền ở Liên Xô thì chẳng có gì đảm bảo rằng Chiến tranh Lạnh
sẽ kết thúc hay chủ nghĩa cộng sản sẽ tan rã ở Châu Âu. Hơn nữa, bản thân các
nhà lãnh đạo phương Tây lúc đó cũng hết sức ngạc nhiên và sửng sốt khi
Gorbachev liên tiếp thoả hiệp với Mỹ và khoanh tay đứng nhìn khi Bức tường
Berlin sụp đổ vào tháng 11 năm 1989. Nếu như những người trong cuộc tự tin về
tính hiệu quả của chiến lược kiềm chế đến vậy thì chẳng có lý do gì để họ cảm
thấy ngạc nhiên trước sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh vào thời điểm đó.
Như vậy, việc kiềm chế Trung Quốc
một cách toàn diện không thể đảm bảo sẽ mang lại hiệu quả như mong muốn nhưng lại
có tổn phí lớn vì nó chắc chắn sẽ khiến Trung Quốc tức giận và thi hành chính
sách cứng rắn hơn. Chính sách kiềm chế sẽ củng cố nỗi sợ hãi bị bao vây cô lập
của Trung Quốc và chứng minh rằng phe diều hâu trong nội bộ Trung Quốc đã đúng.
Một khi phe diều hâu ở Trung Quốc thắng thế, nhất định Bắc Kinh sẽ còn thi hành
các chính sách cứng rắn hơn nữa. Đây là hệ quả mà bất kể chính khách nào ở
Washington đều muốn tránh và vì vậy thực thi chiến lược kiềm chế một cách toàn
diện nhiều khả năng sẽ gây phản tác dụng.
Hơn nữa, tuy Mỹ cần lên tiếng phản
đối và ngăn chặn những hành động thiếu tính xây dựng của Trung Quốc nhưng cô lập
Trung Quốc sẽ là hành động thiếu khôn ngoan bởi Washington cần sự hợp tác của Bắc
Kinh trong các vấn đề quản trị toàn cầu (global governance). Từ chống biến đổi
khí hậu, chống phổ biến vũ khí hạt nhân cho tới can thiệp nhân đạo, Trung Quốc
với sức nặng của mình đang ngày càng trở thành một đối tác không thể thay thế
trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu nóng bỏng. Vì vậy, nếu người Mỹ muốn
giải quyết các vấn đề toàn cầu, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài bắt tay với
người Trung Quốc. Đây sẽ là điều không tưởng khi hai nước ở trong tình trạng đối
đầu thù địch như Mỹ và Liên Xô trong thời kỳ đầu của Chiến tranh Lạnh.
Vì những lý do trên, tác giả cho
rằng không những chiến lược kiềm chế như đã được đề xuất không khả thi vào lúc
này mà nó còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ phản tác dụng nữa.
Xét về khía cạnh thiết yếu, tác
giả cũng nhận định rằng chưa đến lúc Mỹ buộc phải thực thi chính sách kiềm chế
toàn diện đối với Trung Quốc.
Thứ nhất, mặc dù Trung Quốc có
nhiều lợi ích kinh tế ở Nam Mỹ, ở Châu Phi và kể cả ở Trung Đông nhưng họ không
sẵn sàng can thiệp vào những nơi đó như Liên Xô và họ cũng không có nguồn lực để
lật đổ chính quyền ở các nước láng giềng để thành lập các quốc gia vệ tinh như
Liên Xô đã từng làm ở Đông Âu. Nói cách khác, Trung Quốc chưa đặt ra các thách
thức ở quy mô toàn cầu cho Mỹ như Liên Xô ngày trước.
Thứ hai, nhìn vào biểu hiện của
Trung Quốc kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, đa phần các học giả hiện nay đều
cho rằng Trung Quốc không phải là một thế lực “cách mạng” (revolutionary
power). Nói cách khác, các nhà lãnh đạo Trung Quốc chưa cho thấy tham vọng lật
đổ trật tự thế giới hiện nay do Mỹ đứng đầu và thiết lập một trật tự thế giới của
riêng mình. Lý do bởi họ là một trong những quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất
từ trật tự thế giới hiện nay. Chỉ sau hơn ba thập kỷ mở cửa, nền kinh tế Trung
Quốc đã vươn lên vị trí số hai và đưa hàng trăm triệu người dân Trung Quốc
thoát cảnh đói nghèo. Đây là một điều không tưởng dưới bất kì một trật tự kinh
tế – chính trị nào khác.
Nền kinh tế dựa trên xuất khẩu của
Trung Quốc sẽ phát triển phồn thịnh nhất trong một thế giới tự do với an ninh
hàng hải được đảm bảo bởi hải quân Mỹ. Điều này không có nghĩa rằng đây là trật
tự thế giới lý tưởng nhất đối với Trung Quốc về mọi mặt. Nếu có quyền lựa chọn,
các lãnh đạo Trung Quốc chắc chắn sẽ muốn sửa đổi một số “luật chơi” cho công bằng
hơn. Tuy nhiên điểm mấu chốt ở đây là các nhà lãnh đạo Trung Quốc chưa bất mãn
đến độ cảm thấy buộc phải lật đổ trật tự hiện nay và thay thế bằng một trật tự
thế giới của riêng mình như Hitler vào những năm 1930.
Cuối cùng, tuy Trung Quốc nay đã
hùng mạnh hơn trước rất nhiều nhưng xét về mọi mặt vẫn còn thua kém Mỹ rất nhiều.
Một nghiên cứu mới đây đã khảo sát ý kiến của hơn 300 học giả hàng đầu Trung Quốc
về quan hệ quốc tế tại một hội thảo ở Bắc Kinh. Kết quả của cuộc khảo sát cho
thấy đa số các chuyên gia đều tin rằng Trung Quốc sẽ khó có thể vượt mặt được Mỹ
trong vòng 10 năm tới và họ tin rằng chính sách xoay trục của Mỹ đang đặt ra
thách thức lớn đối với Trung Quốc và là nguyên nhân dẫn đến các chính sách cứng
rắn mới đây của chính quyền Bắc Kinh. Do đó, Mỹ không có lý do gì để tìm cách
kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc, đặc biệt nếu như đây là một sự trỗi dậy thực
sự hòa bình.
Kiềm chế Trung Quốc ở Biển Đông:
Vì sao và làm thế nào?
Mỹ cần phải chấp nhận rằng sự trỗi
dậy của Trung Quốc là một thực tế không thể chối bỏ và Mỹ gần như không thể làm
gì để kìm hãm sự trỗi dậy của Trung Quốc mà không tự hủy hoại chính mình. Tuy
nhiên điều này không đồng nghĩa với việc Mỹ nên khoanh tay đứng nhìn Trung Quốc
chèn ép các nước láng giềng và ngang nhiên bành trướng lãnh thổ ở Biển Đông bất
chấp luật pháp quốc tế. Hiện nay chính quyền Bắc Kinh đang theo đuổi chiến lược
“tằm ăn dâu” từng bước mở rộng phạm vi kiểm soát của mình ở Biển Đông với mục
tiêu cuối cùng là thâu tóm toàn bộ vùng biển trọng yếu này. Đây mới là mối đe dọa
thực sự đối với lợi ích an ninh của Mỹ.
Một khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc
tin rằng Mỹ và các đồng minh không thể hóa giải được chiến lược bành trướng của
họ, họ sẽ kết luận rằng đây là một cách thức tốt để thách thức Mỹ ở các khu vực
khác, sát sườn với Mỹ hơn khi điều kiện cho phép. Chúng ta cũng biết rằng các
quốc gia luôn có xu hướng “sao chép” các chính sách có hiệu quả của các nước
khác. Chính vì thế, rất có thể những đối thủ khác của Mỹ hiện nay như Nga cũng
sẽ học theo mô hình bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông và áp dụng nó ở những
khu vực có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh của Mỹ và các đồng minh như ở Đông
Âu.
Hơn nữa, Mỹ cần phải ngăn chặn bước
tiến của Trung Quốc ở Biển Đông bởi những hành động hiện nay của Trung Quốc là
những đòn tấn công trực tiếp vào trật tự khu vực dựa trên luật lệ
(rules-based). Tất cả những gì Trung Quốc đang làm hiện nay, từ bồi đắp đảo
nhân tạo cho tới dùng vũ lực để uy hiếp tàu bè của các nước láng giềng là những
hành động vi phạm luật pháp quốc tế. Nếu Mỹ không thuyết phục được Trung Quốc
ngưng những hành động trên có nghĩa là họ ngầm chấp nhận cho Trung Quốc dùng sức
mạnh của mình để thay đổi hiện trạng, bất chấp luật pháp quốc tế. Cuối cùng,
lúc này là cơ hội tốt nhất để Mỹ có thể ngăn chặn được bước tiến của Trung Quốc
bởi sức mạnh của Trung Quốc vẫn còn chưa ngang bằng với Mỹ. Có thể trong 5, 10
năm tới Trung Quốc sẽ suy yếu và không còn là mối hiểm họa nữa nhưng có thể họ
sẽ trở nên ngang bằng với Mỹ hoặc thậm chí là mạnh hơn. Lúc đó dù Mỹ muốn kiềm
chế Trung Quốc ở Biển Đông, họ cũng sẽ không còn cơ hội nữa.
Vậy phải làm thế nào để có thể kiềm
chế được Trung Quốc ở Biển Đông? Theo tác giả, Mỹ cần thực hiện một chiến lược
“Phản ứng Linh hoạt” với mục tiêu lớn nhất là hạn chế và vô hiệu hoá các nỗ lực
của Trung Quốc nhằm thay đổi hiện trạng lãnh thổ và cán cân quyền lực ở Biển
Đông bằng cách buộc nước này phải trả giá cho mọi hành động thiếu xây dựng và
gây leo thang căng thẳng. Chiến lược này có bốn đặc điểm chính: kịp thời, độc lập,
chọn lọc và tương xứng.
Thứ nhất là, kịp thời: Mỹ cần trả
đũa kịp thời sau khi Trung Quốc có hành động leo thang căng thẳng để gửi đi tín
hiệu rằng Trung Quốc sẽ phải trả giá cho bất kì hành động nào không mang tính
chất xây dựng, dù lớn dù nhỏ. Ví dụ thực tế là chỉ hai ngày sau khi Bắc Kinh
đơn phương tuyên bố thiết lập ADIZ trên vùng biển Hoa Đông, Mỹ đã lặp tức đưa
hai “pháo đài bay” B-52 bay qua để gửi đi tín hiệu rằng mình không công nhận
ADIZ của Trung Quốc. Việc buộc Trung Quốc phải trả giá ngay lập tức cho tất cả
các hành động thiếu tính xây dựng ở Biển Đông sẽ thuyết phục các nhà lãnh đạo ở
Bắc Kinh rằng những bước đi gây leo thang căng thẳng của họ sẽ “lợi bất cập hại”.
Thứ hai là, độc lập: biện pháp trả
đũa phải được thực hiện một cách độc lập, tức mỗi đòn trả đũa đều phải là một
hành động cụ thể và đủ đơn giản để Mỹ có thể triển khai tức thì. Ví dụ cụ thể của
một hành động trả đũa độc lập là việc Mỹ đưa tàu khu trục USS Lassen đi qua
vùng 12 hải lý để thách thức yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông vào
cuối năm 2015. Một đòn trả đũa sẽ độc lập nếu nó không cần phải được triển khai
cùng lúc với nhiều biện pháp khác và không cần sự đồng ý hay phối hợp của các
bên khác.
Thứ ba là, chọn lọc: đòn trả đũa
phải nhắm vào các mục tiêu cụ thể để nhắm vào. Đây là một yếu tố vô cùng quan
trọng bởi chọn lọc mục tiêu sẽ giảm thiểu rủi ro Trung Quốc leo thang qua việc
đáp trả bằng các đòn trừng phạt ở quy mô lớn. Điều này cũng sẽ giúp xây dựng
tính chính đáng cho chính sách kiềm chế của Mỹ bởi các đòn trả đũa hoàn toàn chỉ
nhắm vào các đối tượng trực tiếp tham dự vào các hành động nhằm thay đổi hiện
trạng ở Biển Đông. Ví dụ như thay vì bao vây cấm vận Trung Quốc, Mỹ nên ngăn chặn
các hành động cải tạo và bồi đắp đảo nhân tạo của Trung Quốc thông qua việc trừng
phạt các cá nhân và công ty có liên quan đến hành động này. Trong trường hợp
này, Mỹ phải nhắm vào công ty nạo vét thuộc Tập đoàn Giao thông và Xây dựng
Trung Quốc (CCCC). Đồng thời Mỹ có thể cấm đi lại và phong toả tài sản ở nước
ngoài của các quan chức Trung Quốc có liên quan đến các hành động cải tạo và bồi
đắp đảo nhân tạo ở Biển Đông. Hơn nữa, việc nhắm vào các công ty có thể sẽ
tránh cho Mỹ phải đối đầu trực tiếp với chính phủ Trung Quốc.
Cuối cùng là, tương xứng: độ mạnh
của đòn trả đũa phải tương xứng với hành động khiêu khích của Trung Quốc. Yếu tố
này sẽ giúp giảm thiểu khả năng leo thang xung đột giữa hai bên, tránh xảy ra
chiến tranh chính quy ở diện rộng. Hơn nữa, việc phản ứng một cách tương xứng
như vậy sẽ giúp người Trung Quốc hiểu rằng họ mới là người quyết định xem Trung
Quốc sẽ phải trả cái giá lớn đến mức nào cho các hành động của mình. Nói cách
khác, Bắc Kinh cư xử càng thô bạo thì đòn trả đũa càng cứng rắn, Trung Quốc
càng mềm mỏng thì đòn trả đũa càng nhẹ nhàng.
Kết luận
Mỹ không thể kiểm soát được sự trỗi
dậy của Trung Quốc và hơn nữa, một Trung Quốc hùng cường nhưng thân thiện và có
trách nhiệm là một nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của cả thế giới. Tuy
nhiên Mỹ không thể khoanh tay đứng trước tham vọng độc bá của Trung Quốc ở Biển
Đông bởi sớm muộn chính sách bành trướng của Trung Quốc ở vùng biển này sẽ đe dọa
an ninh của Mỹ và các đồng minh.
Chính quyền Trump đã tuyên bố chấm
dứt chính sách xoay trục nhưng cũng như người tiền nhiệm của mình, tân tổng thống
Donald Trump sẽ buộc phải đối mặt với thách thức từ Trung Quốc. Trong bối cảnh
hiện nay, chiến lược phản ứng linh hoạt như tác giả đã đề xuất là cách tốt nhất
để Mỹ kìm hãm bước tiến của Trung Quốc ở Biển Đông.
Chiến lược này sẽ không có tác dụng
ngay trong một sớm một chiều nhưng nếu Mỹ có thể duy trì chiến lược này một
cách kiên trì và bền bỉ, họ sẽ thuyết phục được các nhà lãnh đạo Bắc Kinh rằng
việc độc chiếm Biển Đông không những là một mục tiêu bất khả thi mà còn có tổn
phí cực kỳ to lớn nếu họ cố chấp theo đuổi. Và nếu Mỹ thành công trong việc
thuyết phục Trung Quốc từ bỏ tham vọng ở Biển Đông, họ sẽ không những đảm bảo
được ngôi vị dẫn đầu của mình mà còn chứng minh cho tất cả thấy rằng nước Mỹ tiếp
tục xứng đáng được lãnh đạo thế giới.
*
Ngô Di Lân là nghiên cứu sinh tiến
sĩ tại Đại học Brandeis, Hoa Kỳ. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của cá nhân
tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét