Tuấn
Khanh ghi
Sự kiện ông Trịnh Vĩnh Bình đang thắng thế trong cuộc chiến
với Nhà nước VN, đòi 28.000 tỉ đồng, đang nhắc một chuyện rằng chưa nào giờ nền
kinh tế của VN đang đứng trước nhiều khó khăn như hiện nay: nợ công tăng, tiền
của nhiều dự án phải trả, cũng như hơn 200.000 tỉ đồng cần thanh khoản cho hệ
thống nhà nước vào cuối quý 4 này. Nhiều người đồn đoán về một cú khủng hoảng lớn
hay suy sụp của VN sắp tới, liệu điều đó có khả năng xảy ra không, thưa ông?
Đầu tiên, tôi muốn định nghĩa là thế nào là suy sụp. Tôi lấy
ví dụ là năm 1997, Thái Lan đã trãi qua một giai đoạn tăng trưởng rất nhanh
trong 8 nước có chủ trương tân hưng. Rồi bất ngờ vào ngày 2/7/1997 thì Thái Lan
rơi vào một cuộc khủng hoảng tài chính, kéo dài đến 10 năm. Điều này tác động đến
nhiều thứ thay đổi ở Thái. Trở lại định nghĩa suy sụp, tôi tin rằng chọn một mô
hình phát triển kinh tế thì bao giờ cũng gặp phải những khủng hoảng và suy sụp
nhất định ở các mặt. Có thể là 5 năm, có thể là 10 năm. Nhưng khủng hoảng về
chính trị thì dễ chữa chứ còn khủng hoảng về văn hóa thì khó chữa hơn. Điều mà
tôi ngại ở Việt Nam là vấn đề đó, tức tan nát từ văn hóa, đặc biệt khi Việt Nam
ở bên cạnh Trung Quốc.
Trong bối cảnh mà thế giới cứ khoảng 5 năm lại bùng phát các
đợt sáng tạo và thay đổi, thì sự suy sụp mà ta nói đến, sẽ kéo Việt Nam trì trệ
sâu hơn, oan uổng cho tài sức của người Việt, của dân tộc Việt.
Tôi không nói Việt Nam sẽ sụp đổ về tài chính công, tức nói
thẳng là nợ, mà sẽ gặp căng thẳng vô cùng về ngoại hối. Vì lẽ trong giai đoạn
2008-2014 đồng Mỹ kim trị giá thấp, ai nấy đều vay tiền Mỹ. Nay thì tiền Mỹ có
giá hơn nên nợ trở nên cao hơn. Đặc biệt là chuyện vay nhiều rồi dùng sai mục
đích, tham nhũng, chia chác… thì không có cách
gì trả nổi. Và chính giai đoạn đó sẽ dẫn đến đổ vỡ nhiều thứ và nhiều hậu
quả, kể cả mất luôn các cơ hội tăng trưởng cùng nhịp với thế giới. Nhưng để gọi
là suy sụp hay sụp đổ một chế độ thì không đơn giản là dựa vào các yếu tố như vậy.
Nhà nước CSVN lâu nay vẫn kềm giữ sự bình ổn trong xã hội bằng
bẫy thu nhập trung bình. Thế nhưng các vấn đề tài chính gần đây đã bắt đầu có
những tác động như qua việc tăng thuế, tăng giá sinh hoạt… Sự liên kết phản ứng
của giới tài xế trước việc lạm thu BOT ở Cai Lậy cũng là một chỉ dấu tạm gọi, về
sự bất mãn của giới trung lưu. Đó có là những vấn đề liên quan đến khía cạnh
chính trị, dù chưa rõ ràng?
Tôi nghĩ là chỉ một phần thôi. Vấn đề của giới trung lưu có
hai mặt. Mặt kinh tế thì họ sẽ nhận thức xã hội khác đi khi họ bị mất quyền lợi
thu nhập như trước. Nói nôm na là nghèo đi. Còn mặt ý thức chính trị thì luôn
luôn là một ẩn số. Bởi trình độ văn hóa và tư duy về luật pháp-xã hội ở mỗi quốc
gia đều khác nhau. Nhìn về Hàn Quốc, thì phải có một tầm mức nhận thức chung
nào đó thì giới trung lưu mới cùng với dân chúng cùng xuống đường bãi nhiệm bà
tổng thống Park Geun-hye như vậy.
Tôi thì quan tâm nhiều hơn đến thành phần gọi là trung lưu
thấp, hoặc giai cấp nghèo hơn, vì ít ai để ý đến họ. Báo chí nước ngoài đến Việt
Nam phỏng vấn thường tìm đến những người biết tiếng Anh, chứ ít khi nào gặp những
bà cụ ở thôn quê hay gia đình những ngư dân chết dở sống dở vì biển bị nhiễm độc.
Đó mới chính là tầng lớp phản ánh đúng về cuộc sống và mang khát vọng thay đổi
xã hội lẫn chính trị.
Nhân dịp ông nói về giới “trung lưu thấp”, chúng ta hãy bàn
về giới “trung lưu cao”. Nhà nước CSVN vẫn cố tạo một mặt bằng bình ổn cho giới
này làm ăn, đầu tư và tạo ra một mặt bằng của Việt Nam có vẻ phồn vinh trong suốt
giai đoạn hội nhập với thế giới. Nhưng rõ ràng là các lồng luật pháp nhốt giới
trung lưu ngày càng chật với sự thành đạt của họ, đó là chưa nói về lớp đại gia
như Phạm Nhật Vượng, Bùi Thành Dương, Trần Bá Nhơn… chẳng hạn. Liệu để đảm bảo
cho quyền lợi và tương lai làm giàu của mình không bị tổn hại, giới này có tham
gia tác động vào những thay đổi chính trị hay không?
Cũng có những lớp trung lưu nhận ra điều đó, nhưng không nhiều
ở Việt Nam, bởi cái khó riêng của nó. Ở các nước khác, chẳng hạn như Đài Loan
hay Hàn Quốc họ chấp nhận phần mất mát quyền lực của nhà cầm quyền để đất nước
đổi thay qua các thời điểm tranh cử. Quốc Dân Đảng của Lý Đăng Huy hay Nam Hàn
với Kim Đại Chung là những ví dụ rất rõ. Việt Nam không có đa nguyên đang đảng
nên giới trung lưu ái quốc và tiến bộ hiện nay chỉ có thể nghĩ đến chuyện thay
đổi kinh tế hay vậy chất mà thôi. Bị bao bọc bằng các luật lệ về chính trị nguy
hiểm nên họ chỉ có thể mơ đến chuyện làm giàu và làm sao để không va chạm với
thể chế. Và đó là cái dở, là ngõ cụt của giới trung lưu tiến bộ và ái quốc.
Quan chức khuyến khích chỉ nên làm giàu chứ không nên đụng đến chính trị, nhưng
với Việt Nam khi đã khủng hoảng chính trị đến, thì mọi thứ sẽ bị kéo sát đáy.
Nhắc về quá khứ, Nam Hàn và Việt Nam Cộng Hòa có cùng một
trình độ phát triển. Nhưng Việt Nam thì
lại kẹt vào chiến tranh. Ngay lúc đó, Park Chung Hee đã yêu cầu giới kinh tế
gia phải phác thảo những kế hoạch 10 và 20 năm cho nhu cầu phát triển kinh tế đất
nước, từ đó các tập đoàn tư doanh lớn ra đời, đặt nền móng cho các thương hiệu
và nền sản xuất lớn của Nam Hàn về sau. Riêng Việt Nam thì khác, chẳng hạn công
ty điện lực nhà nước tự mọc ra một loạt các công ty con (cũng của nhà nước) để chia chác, mua
bán, tham nhũng. Rồi các công ty con nào đó của Bộ Quốc Phòng chia chác, lạm dụng
đất đai của dân chúng để làm giàu thì không là kế hoạch phát triển cho tương
lai, thì chỉ là dự báo cho những khủng hoảng sẽ đến. Ngay cả Trung Quốc giàu mạnh
vậy mà cũng đang vướng vào những chuyện khó gỡ tương tự thì Việt Nam không thể
chạy khỏi.
Có thể trong con cháu của những người lãnh đạo, cũng có người
có lòng nghĩ đến nước nhà nhưng chắc chỉ có một thiểu số nghĩ đến việc thay đổi
chính trị. Nhưng với lợi thế của mình, phần lớn họ chỉ dám nghĩ đến việc làm
giàu trước đã vì chính họ cũng nghĩ rằng các cơ hội như vậy sẽ không còn dài,
trong một xã hội hay nền chính trị đầy bấp bênh trước mắt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét