Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Hình: Đài tưởng niệm USS Arizona
Memorial tại Trân Châu Cảng. Nguồn: Wikipedia.
Ngày 07 tháng 12 năm 1941, Đế quốc
Nhật tung ra một cuộc tấn công bất ngờ vào lực lượng hải quân Hoa Kỳ đồn trú tại
Hawaii. Khi thúc giục Quốc hội Mỹ tuyên chiến, Tổng thống Franklin Roosevelt đã
gọi ngày 07 tháng 12 là “ngày ô nhục”.
Đúng vậy. Cuộc tấn công vào Trân
Châu Cảng đã gây sốc cho người Mỹ và đưa đất nước này tham gia vào Thế chiến
II. Nó cũng dẫn đến các cuộc vây ráp người Mỹ gốc Nhật rồi giam giữ họ ở các trại
khắp miền tây Hoa Kỳ. Trân Châu Cảng tạo nên sự thống nhất quốc gia, nhưng cũng
gây ra những biểu hiện đáng lo ngại về tệ phân biệt chủng tộc bài Nhật và nỗi sợ
hãi ở Mỹ. Cả hai di sản cần được ghi nhớ cùng nhau, đặc biệt nếu xét đến các xu
hướng hiện tại trong diễn ngôn chính trị của Mỹ vốn “ác quỷ hóa” cả một khối
người, song lần này dựa trên lý do tôn giáo hơn là sắc tộc.
Đáng chú ý là đã có bao nhiêu
thay đổi trong 74 năm qua kể từ sự kiện Trân Châu Cảng, đặc biệt là giữa Hoa Kỳ
và Nhật Bản. Hai quốc gia, xưa là kẻ thù, nay lại tương thuộc về chính trị,
quân sự và kinh tế. Ngay cả những người dân mỗi quốc gia cũng mang một cái nhìn
tích cực về nhau. Cuộc khảo sát năm 2015 của tổ chức Pew cho thấy 68 phần trăm
người Mỹ rất hoặc khá tin tưởng người Nhật và 75 phần trăm người Nhật tin tưởng
Hoa Kỳ. Điều này bất chấp việc hơn 2.400 người bị giết trong cuộc tấn công Trân
Châu Cảng và hàng ngàn người nữa ở cả hai phía bị giết trong cuộc chiến tranh
Thái Bình Dương sau đó; bất chấp các vụ ném bom nguyên tử ở Hiroshima và
Nagasaki, một cuộc chiếm đóng và cưỡng bức thay đổi chính trị. Sau chiến tranh,
quan hệ hai bên không được đảm bảo chắc chắn sẽ hữu nghị, và thực tế là suốt thập
kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990 khi nền kinh tế Nhật Bản hồi phục và bứt phá lên,
người Mỹ đã lo sợ và nhạo báng những chiếc xe hơi do Nhật Bản sản xuất tựa như
cách họ nhạo báng hàng hóa “Made in China” ngày nay.
Nhờ đâu các quan điểm có thể xoay
vần nhanh thế vậy?
Trường hợp của Theodor Geisel là
một minh họa cho sự tiến hóa trong quan điểm của người Mỹ, đặc biệt là về Nhật
Bản, từ phân biệt chủng tộc, giận dữ và sợ hãi sang lòng trắc ẩn và quan hệ đối
tác. Geisel, được biết đến nhiều qua bút danh Dr. Seuss, là một họa sĩ biếm họa
và tác giả nổi tiếng của Mỹ. Trong thập kỷ 1940, ông là một họa sĩ biếm họa
chính cho PM Magazine, một tờ báo ở New York, nơi ông đã vẽ hơn 400 biếm họa
chính trị. Được biết đến nhiều nhất qua tác phẩm truyện tranh Con mèo đội mũ
(Cat in the Hat), ông đã vẽ nhiều biếm họa rõ ràng là nhằm kỳ thị người Đức và
Nhật trong những năm đầu cuộc chiến.
Hai ngày trước ngày diễn ra sự kiện
Trân Châu Cảng, PM Magazine đăng một biếm họa của Geisel miêu tả Hitler là người
chơi đàn organ quay tay và Nhật Bản là một con khỉ nuôi. Hitler đang đứng ở một
góc và con khỉ, bị giật dây, tay đang cầm một cái ly đi đến trước một con chim
đội mũ sọc, đại diện cho hình ảnh Hoa Kỳ. Con khỉ đang quay lại hỏi Hitler: “Sư
Phụ! Con phải làm gì nếu họ không bị dụ?”
Quan điểm của Geisel về người Nhật,
và người Mỹ gốc Nhật, thể hiện sự cay độc và kinh tởm. Ông ủng hộ việc giam giữ
người Mỹ gốc Nhật như trích dẫn sau cho thấy:
Chính bây giờ, khi lũ Nhật cắm rìu vào sọ
chúng ta, thật khốn nạn nếu chúng ta cứ mỉm cười và thỏ thẻ: “Ôi, người anh
em!” Nó có hơn gì một tiếng thét xung trận èo uột. Nếu chúng ta muốn giành chiến
thắng, chúng ta phải giết lũ Nhật, dù điều đó có làm phiền lòng John Haynes
Holmes [một người ủng hộ hòa bình nổi tiếng] hay không. Chúng ta sau này có thể
thân tình với đám người còn lại.
Nhưng sau chiến tranh, Geisel đã
thay đổi thái độ của mình. Năm 1953, ông đến thăm Nhật Bản sau thời kỳ chiếm
đóng và cảm tác nên tác phẩm Chú voi Horton (Horton Hears a Who), một cuốn sách
trẻ em về việc một chú voi tên Horton đã phát hiện ra một cộng đồng gọi là
Whoville sống trên một hạt bụi. Lời răn của câu chuyện, được lặp lại nhiều lần,
đó là “con người là con người, dù là lớn hay nhỏ”. Cuốn sách được xuất bản một
năm sau chuyến thăm Nhật Bản của Geisel đã được đề tặng cho một người bạn Nhật,
và được nhiều người xem là một ẩn dụ cho sự chiếm đóng hậu chiến của Hoa Kỳ mà
thông qua đó nước Nhật đã được tái sinh. Một trong những người viết tiểu sử về
Geisel, Thomas Fensch, cho rằng Geisel cũng đã nhắc tới (vụ ném bom nguyên tử
xuống) Hiroshima qua lời của nhân vật Thị trưởng Whoville, khi vị này nói rằng:
“Khi chú chim thả chúng ta rơi xuống, chúng ta chạm đất mạnh đến nỗi đồng hồ
cũng phải đứng kim”.
Sau chiến tranh, Geisel không phải
là người duy nhất thay đổi cách nhìn. Không rõ có khi nào ông nói về sự ủng hộ
mạnh mẽ của ông đối với các trại giam người Nhật hay không, nhưng Hoa Kỳ cuối
cùng đã làm vậy. Năm 1980, Tổng thống Jimmy Carter cho phép tiến hành một cuộc
điều tra để xác định liệu lệnh giam giữ của Roosevelt – Sắc lệnh 9066 – có hợp
pháp hay không. Ủy ban Tái định cư và Giam giữ Thường dân Thời chiến (CWRIC) thấy
có rất ít bằng chứng là những người Mỹ gốc Nhật bị bắt giam không trung thành
(với Hoa Kỳ), và trong báo cáo tổng kết đã khuyến nghị chính phủ Mỹ nên bồi thường
thiệt hại cho họ.
Năm 1988, Tổng thống Ronald
Reagan đã làm việc này. Đạo luật Quyền tự do Công dân thừa nhận sự bất công của
chương trình giam giữ, xin lỗi và chỉ thị chính phủ cả trả tiền bồi thường lẫn
đầu tư vào các chương trình truyền thông để “công bố về hành động giam giữ các
cá nhân này cũng như để ngăn ngừa sự tái diễn bất kỳ sự kiện tương tự nào”. Hơn
nữa, dự luật lưu ý rằng việc giam giữ “có động cơ chủ yếu từ thành kiến chủng
tộc, sự quá kích thời chiến, và là một thất bại của giới lãnh đạo chính trị.”
Thành kiến, sự quá khích thời chiến
và thất bại của giới lãnh đạo chính trị một lần nữa đang đe dọa đẩy Hoa Kỳ xuống
hố sâu.
Hồi tháng Mười, thị trưởng thành
phố Roanoke, bang Virginia, đã ngớ ngẩn nhắc lại các trại giam của Roosevelt nhằm
phản đối việc tái định cư người tị nạn Syria ở thành phố mình. “Tôi xin nhắc lại
rằng Tổng thống Franklin D. Roosevelt cảm thấy buộc phải tạm giam những kiều
dân Nhật sau vụ oanh tạc Trân Châu Cảng và nay dường như đã xuất hiện mối đe dọa
đối với nước Mỹ [từ Nhà nước Hồi giáo] thật sự và nghiêm trọng như những mối đe
doạ từ các kẻ thù của chúng ta thời đó”. David Bowers đã viết như vậy, phô bày
một sự hoang tưởng vượt thời gian mà không hề có chút nhận thức nào về thực tế.
Vào đêm trước Lễ kỷ niệm trận
Trân Châu Cảng, Tổng thống Barack Obama đã phát biểu trước dân chúng, trong đó
ông dùng những lời nhằm an ủi người Mỹ sau cuộc tấn công ở San Bernardino, bang
California, cuộc tấn công vốn dường như có động cơ bắt nguồn từ ý thức hệ ISIS.
Trong bài phát biểu, Obama khẩn thiết kêu gọi người dân Mỹ đừng “chống lại nhau
bằng cách để cuộc chiến này được coi như một cuộc chiến giữa Mỹ và Hồi giáo”.
Các phóng viên và các ứng cử viên tổng thống (kể cả các ứng cử viên đã thất bại)
đã nhanh chóng tung đòn chỉ trích. Mike Huckabee nói:
Quý vị có thể tưởng tượng được FD Roosevelt
ra trước Quốc hội và nói rằng “Hôm qua chúng ta bị tấn công ở Trân Châu Cảng.
Tôi thực sự không muốn nói tới việc ai đã làm điều đó, nhưng các bạn biết đấy,
chúng tôi chỉ muốn nói rằng chúng là những kẻ đáng tởm và chúng là hạng sát
nhân.” Vâng, ai vậy, thưa ngài tổng thống? Vâng, chúng tôi không vạch mặt, bởi
vì tôi không muốn các ngài có bất kỳ ác cảm nào về người Nhật”.
Người ta có thể phê phán Obama vì
từ chối quy lỗi cho đạo Hồi, vì quá thận trọng trong phát biểu, nhưng chính sự
thiếu sót của Roosevelt đã dẫn đến việc thành lập các trại giam trên sa mạc để
giam giữ các công dân trung thành với nước Mỹ. Chính nỗi sợ mà Roosevelt đã mạnh
mẽ chống lại trong bài diễn văn nhậm chức đầu tiên của mình (“… điều duy nhất
chúng ta phải sợ chính là nỗi sợ…”) đã đưa ông đến các kết cục đáng hổ thẹn
trong nhiệm kỳ thứ tư và cũng là cuối cùng của mình.
Tôi tự hỏi, cái giá của sự thống
nhất có bắt buộc phải là sự sợ hãi hay không?
Nguồn: Catherine Putz, “The Lessons of Pearl Harbor: Fear Itself, Then and Now”, The Diplomat, 08/12/2015.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét