Tổng thống Trump được coi như là
một mối đe doạ lớn đối với nhân quyền toàn cầu. Ảnh: Chip Somodevilla/Getty
Images.
Phong trào nhân quyền toàn cầu cần
phải thôi ra vẻ rằng lịch sử thế giới thuộc về họ, và phải xắn tay áo lên mà bắt
đầu chứng minh với mọi người dân bình thường rằng tại sao phong trào đó phải tiếp
tục.
Các thay đổi địa chính trị và sự
trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc mang màu sắc dân túy đã kéo đến một cơn sóng phản
kháng lại tư tưởng nhân quyền trên toàn cầu. Chỉ hai tháng sau khi nhậm chức,
Tổng thống Donald Trump đã bắt đầu được định hình là một thảm họa cho phong
trào nhân quyền thế giới.
Từ lệnh tạm cấm nhập cư cho đến
quan điểm ủng hộ tra tấn của ông ta, Trump đang vứt bỏ một thứ (vốn ít nhất đã
được nhìn nhận trên lý thuyết nếu không phải là trong thực tế), đó là một cam kết
mà cả hai đảng phái lớn nhất của Hoa Kỳ đều có: cam kết sẽ luôn cổ súy, phát
huy các giá trị dân chủ và nhân quyền ở nước ngoài.
Tình trạng có vẻ sẽ còn tệ hơn.
Trump đã không tiếc lời ca ngợi những nhà cầm quyền độc tài và đã thể hiện một
thái độ khinh miệt với các thiết chế chính trị quốc tế.
Ông ta miêu tả nhà độc tài người
Ai Cập Abdel Fattah al-Sisi là một “gã tuyệt vời” và phớt lờ các báo cáo về
tình trạng đàn áp đang được những nhân vật như Vladimir Putin của Nga và Bashar
al-Assad của Syria, hay Recep Tayyip Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ thực hiện. Như cách
Trump nói trong bài diễn văn nhậm chức của ông ta: “Mọi quốc gia đều có quyền đặt
quyền lợi quốc gia của họ lên hàng đầu. Chúng ta không tìm cách áp đặt cách
chúng ta sống lên bất kỳ ai cả.”
Kenneth Roth, giám đốc điều hành
của tổ chức Human Rights Watch, đã viết rằng việc nước Mỹ bầu chọn Trump đã đưa
thế giới đến “bờ vực của bóng tối” và có nguy cơ “đảo ngược mọi thành quả của
phong trào nhân quyền hiện đại.”
Nhưng hiểm họa đó không mới. Thực
tế là sự trỗi dậy của Trump chỉ nhấn mạnh thêm các thử thách mang tính sống còn
của phong trào nhân quyền toàn cầu.
Trong một thập nhiên qua, trật tự
thế giới đã thay đổi cấu trúc theo hướng ngả theo các quyền lực thế giới mới
đang khẳng định địa vị, bao gồm Trung Quốc của Xi Jinping (Tập Cận Bình) và Nga
của Vladimir Putin. Những quyền lực thế giới mới này đã công khai thách thức
các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế trong khi cùng lúc đàn áp bất đồng chính kiến
tại những khu vực lãnh thổ đang có tranh chấp, như Chechnya và Tibet (Tây Tạng).
Những quyền lực thế giới mới nói
trên không chỉ đàn áp bất đồng chính kiến trong nước; bọn họ cũng đang bao che
cho các chính quyền đàn áp nhân quyền, từ Manila cho đến Damascus.
Những nhà độc tài đang bị phương
Tây phê phán bây giờ có thể tìm đến những thế lực như Trung Quốc để có được hậu
thuẫn chính trị và các trợ giúp tài chính hay ngoại giao mà “không bao gồm
nghĩa vụ kèm theo”.
Trào lưu này cũng đang được củng
cố bởi các cuộc nổi dậy ngay tại phương Tây của các phong trào dân tộc, dân
túy. Các phong trào này công kích các định chế bảo vệ nhân quyền và hệ thống
kinh tế toàn cầu mà các định chế đó là một phần.
Với tình trạng chủ nghĩa dân túy
tràn lan trên thế giới và sự lên ngôi của các siêu quyền lực mới như thế, cái
viễn cảnh về một trật tự quốc tế chung cho toàn cầu, vốn khai sinh từ Hòa ước
Westphalia năm 1648 tại châu Âu, đang dần lụi tàn. Một thời đại mới của chủ
nghĩa độc lập chủ quyền đang đến. Tình trạng toàn cầu hóa không kiểm soát và chủ
nghĩa tự do quốc tế đang đưa chúng ta đến với thời đại nhân quyền thoái trào.
Tất cả các yếu tố đó tạo thành một
thử thách mang tính sống còn cho các tiêu chuẩn nhân quyền toàn cầu vốn đã sinh
sôi nảy nở trong giai đoạn từ sau Thế chiến thứ hai.
Vào thời đó, Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền, vốn được thông qua năm 1948, đã được bổ sung thêm bởi một loạt các
hiệp ước và hiệp định đảm bảo các quyền dân sự và chính trị, cũng như các quyền
xã hội và kinh tế, cùng các các quyền dành cho người tỵ nạn, phụ nữ và trẻ em.
Sự sụp đổ của Liên Xô và kết thúc
cuộc Chiến tranh lạnh cũng góp phần làm cho nhân quyền trở nên ăn sâu bén rễ
hơn trong hệ thống quốc tế. Cho dù thế giới có thất bại trong việc ngăn chặn
các cuộc thảm sát tại một số nước như Rwanda và Bosnia, những năm 1990 nhân loại
vẫn đã chứng kiến màn lên ngôi của phong trào nhân quyền quốc tế: phong trào
này có ảnh hưởng xuyên biên giới, vượt tầm quốc gia, và được các tổ chức toàn cầu
như Liên Hợp Quốc và Liên minh châu Âu chống lưng. Phong trào này cũng được
giám sát bởi các tổ chức phi chính phủ quốc tế và một tầng lớp mới bao gồm các
nhà hoạt động chuyên nghiệp và các chuyên gia pháp lý quốc tế.
Công cuộc chuyên môn hóa bên
trong phong trào nhân quyền đến đồng thời với công cuộc phát triển hệ thống
công lý hình sự quốc tế. Thập niên 90 chứng kiến sự hình thành các tòa án được
thiết lập đặc biệt cho các nước như Rwanda hay Nam Tư cũ. Cùng lúc đó là việc
ký kết Quy chế Rome năm 1998 thành lập Tòa án Hình sự Quốc tế (International
Criminal Court). Đây là một thành quả mà Tổng thư ký Liên Hợp Quốc thời đó ông
Kofi Annan đã ca ngợi là “một bước tiến lớn trong cuộc trường chinh đến với
nhân quyền phổ quát toàn cầu và đến với pháp quyền (the rule of law).”
Xét trên giấy tờ, công dân phần lớn
các nước trên thế giới ngày nay đang có trong tay khoảng 400 quyền con người
riêng biệt. Như Michael Ignatieff viết vào năm 2007, nhân quyền chính xác đã trở
thành “thứ ngôn ngữ thống trị các thảo luận về quyền lợi công cộng trên toàn cầu.”
Cốt yếu là, quá trình mở rộng các
tiêu chuẩn mang tính pháp lý này đã diễn ra dựa vào một giai đoạn phát triển
kinh tế chưa từng có, khi mà sự hội nhập kinh tế khiến cho các biên giới quốc
gia dường như biến mất, và cả thế giới thì thu nhỏ lại dưới ảnh hưởng của toàn
cầu hóa và sự phát triển của khoa học kỹ thuật.
Cũng như hệ thống kinh tế mà nó gắn
kết cùng, phong trào nhân quyền toàn cầu có được một ánh hào quang vô địch.
Nhân quyền cùng với triết lý chính trị dân chủ và chủ nghĩa tư bản cổ súy thị
trường tự do, trở thành những phần khác nhau bên trong “gói tân tự do chủ
nghĩa” đang đắc thắng, vốn được Francis Fukuyama xác định năm 1989 là “điểm cáo
chung của quá trình tiến hóa ý thức hệ của loài người.”
Năm 2013, một trong những chuyên
gia hàng đầu về luật quốc tế của Mỹ, Peter J. Spiro, tiên đoán rằng các phát
triển pháp lý và toàn cầu hóa kinh tế đang đưa chúng ta đến với “hoàng hôn của
chủ nghĩa độc lập chủ quyền” (sovereigntism’s twilight).
Fatou Bensouda, công tố viên trưởng
của Tòa án Hình sự Quốc tế, cũng đã tranh luận với ý tương tự, rằng là việc
thành lập tòa án này mở ra một thời kỳ chính trị hậu-Westphalia mà trong đó mọi
nhà cầm quyền đều có thể bị truy cứu trách nhiệm cho các hành vi đàn áp bóc lột
chống lại chính người dân nước họ. (Trong thực tế tới nay chưa có nhà lãnh đạo
còn cầm quyền nào bị truy cứu trách nhiệm cả.)
Thế nhưng vào năm 2017, trong một
giai đoạn bất ổn dâng cao, khi mà các thành quả được hứa hẹn của toàn cầu hóa
đang ngày càng khó trở thành hiện thực cho nhiều người, những thứ vốn dĩ được
xem là chắc chắn nói trên đang dần sụp đổ.
Trong “thời đại giận dữ” hiện
nay, như cách Pankaj Mishra gọi như vậy, nhân quyền đang vừa trở thành một mục
tiêu công kích trực tiếp cho các phong trào dân túy cánh hữu đang nổi lên, vừa
trở thành một tổn thất ngoài dự kiến trong các cuộc tấn công của phong trào dân
túy này dành cho toàn cầu hóa, các thiết chế chính trị quốc tế, và đám tinh hoa
toàn cầu “vô trách nhiệm”.
Một phác họa như thế về viễn cảnh
thế giới mới có thể được nhìn thấy từ châu Âu cho đến Trung Đông cho đến Trung
Á và châu Đại Dương.
Các chính phủ thường xuyên phớt lờ
các nghĩa vụ mà họ có thể theo các hiệp ước nhân quyền toàn cầu. Họ có rất ít e
sợ dành cho các hình thức chế tài mạnh mẽ.
Trong sáu năm trời, các tội ác
tàn bạo đã diễn ra ở Syria mà không có ai phải chịu trách nhiệm, bất kể việc
các chuyên gia đã sáng tạo ra các khái niệm pháp lý mới như nguyên tắc “trách
nhiệm bảo vệ dân chúng”. Trong khi đó, các chính phủ Châu Âu thì tỏ ra miễn cưỡng
trong việc trân trọng các nghĩa vụ pháp lý của họ trong việc tiếp nhận tỵ nạn đối
với hàng trăm ngàn người đang chạy trốn cuộc nội chiến thảm khốc tại Syria.
Chiến dịch xua đuổi người Hồi
giáo Rihingya ở Myanmar đã được bị Liên Hợp Quốc gọi đích danh là một cuộc
“thanh trừng sắc tộc”, nhưng thế giới gần như không làm được gì để ngăn chặn
nó. Ảnh: AFP PHOTO / K.M. ASAD.
Thẳng thắn mà nói thì không phải
hiện tượng nào nói trên cũng là hiện tượng mới; các hiệp ước nhân quyền quốc tế
đã vẫn luôn đóng vai trò là các tiêu chuẩn mang tính định hướng lâu dài mà các
quốc gia trong ngắn hạn thường luôn khó đạt tới.
Thế nhưng ít ra trong thời đại
nhân quyền còn mạnh, cho dù có các bất cập trong việc vươn tới các tiêu chuẩn
nhân quyền, cả thế giới vẫn có vẻ là cùng đi về một hướng: vươn tới sự tuân thủ
chặt chẽ hơn thay vì là từ bỏ.
Trong thời đại đó, các nhà hoạt động
cổ súy nhân quyền và các lãnh đạo thế giới ủng hộ nhân quyền đã phát biểu một
cách tự tin rằng họ đang đứng về “đúng bên của lịch sử”, và ngay cả những nhà độc
tài chuyên chế cũng phải nói những lời đãi bôi ca ngợi nhân quyền.
Nếu như trong thời đại nhân quyền, chúng ta
có thể thấy diễn biến lịch sử rõ ràng, thì ngày nay không còn có thể thấy rõ là
lịch sử sẽ như thế nào nữa.
Theo báo cáo Tự Do Trên Thế Giới
mới nhất, vừa được tổ chức Freedom House công bố vào tháng 1 vừa qua, năm 2016
đánh dấu năm thứ 11 liên tiếp mức độ tự do trên toàn cầu suy thoái. Đó cũng là
năm có 67 nước trên thế giới có mức độ tự do chính trị và dân quyền giảm.
Các thiết chế chính trị quốc tế
cũng đang bị bủa vây. Vào tháng 10 vừa qua, ba nước châu Phi – Nam Phi, Burundi
và Gambia – công bố là họ rút khỏi Tòa án Hình sự Quốc tế, thứ vốn có lẽ là
viên ngọc sáng nhất của thời đại nhân quyền. (Gambia đã thay đổi quyết định sau
khi vị tổng thống độc tài Yahya Jammeh từ chức vào tháng 1.)
Tức giận vì cho là Tòa Hình sự Quốc
tế chỉ lo tập trung truy tố các nghi can người châu Phi một cách không công bằng,
các lãnh đạo tại lục địa này bây giờ đang mưu tính một cuộc rút lui đồng loạt
khỏi tòa này.
Các phê phán từ châu Phi phản ánh
mức độ tự tin đang dâng cao của các chính phủ quốc gia trong việc từ chối nhân
quyền, bằng cách xem nhân quyền là những “giá trị phương Tây”, và bằng cách bôi
đen các tổ chức cổ súy nhân quyền trong nước là những con rối trong tay các thế
lực nước ngoài.
Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều đã ban
hành các điều luật khắt khe mới nhằm cản trở công tác của các tổ chức phi chính
phủ nước ngoài và các nhóm dân sự trong nước có nhận tài trợ nước ngoài, bao gồm
cả các tổ chức cổ súy nhân quyền.
Tại Nga, một luật “tác nhân ngoại
quốc” được ban hành vào năm 2012 đã được sử dụng để kiểm soát chặt chẽ hoạt động
của các tổ chức phi chính phủ vận động nhân quyền, và để “chụp mũ” mọi hành vi
phê phán chính sách của chính phủ là bất trung, nhận tiền ngoại quốc, và “phản-Nga”.
Ở phương Tây, mức độ ủng hộ dành
cho nhân quyền cũng đang suy giảm. Trong chiến dịch vận động ủng hộ Brexit
thành công của mình, Nigel Farage, lúc đó là lãnh đạo đảng Vương quốc Anh Độc lập
(UK Independence Party), đã công kích Công ước Nhân quyền châu Âu. Farage cáo
buộc rằng công ước này đe dọa an ninh Anh quốc vì nó đã được sử dụng để ngăn cản
Anh quốc từ chối tiếp nhận các tay súng người Anh đã chiến đấu cho ISIS trở về
nước này.
Trong cuộc bầu cử tại Mỹ, Donald
Trump đã nhục mạ các nhóm dân thiểu số, cổ vũ cho việc tra tấn, và thể hiện sự
ngưỡng mộ các nhà độc tài – và vẫn chiến
thắng trong cuộc đua vào Nhà Trắng. Trong khi đó, một báo cáo gần đây cho thấy
rằng mức độ ủng hộ các thiết chế pháp lý quốc tế như Tòa Hình sự Quốc tế tại
phương Tây cũng đang lay lắt, chỉ được duy trì “chừng nào tòa này tập trung giải
quyết các vấn đề của những nước khác.”
Trong thời đại nhân quyền suy
thoái trên thế giới, các tiêu chuẩn nhân quyền toàn cầu và các thiết chế chính
trị quốc tế sẽ vẫn tồn tại nhưng càng ngày càng trở nên kém hiệu quả.
Đây sẽ là thời đại mà các cuộc
tranh đấu giữa các siêu cường trên thế giới được làm nóng lại, trong một không
gian mà Robert Kaplan đã miêu tả là “một thế giới càng ngày càng đông đúc, đầy
bồn chồn và lo lắng.”
Tuy vậy, thế giới trong thời đại
nhân quyền suy thoái sẽ không vắng bóng các cuộc đấu tranh chính trị ở cấp cơ sở
(grassroots). Trái lại, các cuộc đấu tranh này có thể sẽ dâng cao khi mà chính
quyền thu hẹp lại các không gian dành cho bất đồng chính kiến và tư tưởng. Thật
vậy, làn sóng chống đối các chính sách của Trump trong nước Mỹ là một dấu hiệu
sớm cho thấy tinh thần hoạt động chính trị đang bước vào một giai đoạn nảy nở mới,
và sẽ ngày càng có ý nghĩa.
Vậy thì chúng ta phải làm gì đây?
Như các nhà hoạt động nhân quyền đã xác nhận, cần có các cách tiếp cận mới để
giải quyết vấn đề.
Trong tháng 12 vừa qua,
RightStart, một trung tâm tư vấn nhân quyền mới, đã khai trương bằng cách công
bố năm chiến lược mà các tổ chức phi chính phủ vận động nhân quyền cần sử dụng
để thích ứng với giai đoạn “khủng hoảng hiện sinh” hiện nay của phong trào nhân
quyền. (Công khai minh bạch luôn: Tôi đã từng làm việc với một trong những người
sáng lập RightStart.)
Trong năm chiến lược nói trên có
nhắc đến việc các tổ chức nhân quyền phải “truyền bá một cách hiệu quả hơn” tầm
quan trọng của nhân quyền, và sử dụng công tác vận động quốc tế nhằm tạo điều
kiện hơn cho tiếng nói của các cộng đồng địa phương.
Philip Alston, một nhà hoạt động
nhân quyền lâu năm và là một giáo sư luật tại đại học New York, đã lập luận là
phong trào nhân quyền sẽ phải đối mặt với một sự thật rằng bản thân phong trào
này đã chưa hề bao giờ đưa ra được một giải pháp ổn thỏa cho vấn đề cốt lõi là
nguyên nhân cho sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy hiện nay: tình trạng bất bình
đẳng kinh tế toàn cầu.
Nói một cách rộng nhất, phong
trào nhân quyền toàn cầu cần phải thôi ra vẻ rằng lịch sử thế giới thuộc về họ,
và phải xắn tay áo lên mà bắt đầu chứng minh với mọi người dân bình thường rằng
tại sao phong trào đó phải tiếp tục.
Trong khi chính trị chuyên chế độc
đoán đang ngày càng mạnh lên, đây là lúc chúng ta phải dấn thân vào chính trị
và phải áp dụng các chiến thuật uyển chuyển và thực tế hơn để làm cho xã hội
con người trở nên tốt đẹp hơn.
Công tác vận động pháp lý sẽ vẫn
quan trọng, nhưng nên tập trung nỗ lực hướng xuống phía dưới, về phía các tòa
án và quốc hội quốc gia hơn. Chính tại những nơi này phong trào dân túy cánh hữu
đang giành được những chiến thắng vang dội. Cũng chính tại những nơi này, cuộc
tranh đấu chống lại chủ nghĩa Trump và những hiện thân khác nhau của thứ chủ
nghĩa đó sẽ được quyết định thắng bại cuối cùng.
*
Tác giả Sebastian Strango là một
nhà báo chuyên viết về khu vực Đông Nam Á. Ông đã có hơn 30 bài báo được xuất bản
trên các báo và tạp chí hàng đầu trên thế giới.
Lược dịch từ bài báo “Welcome to the Post-Human Rights World” của tác giả Sebastian Strangio đăng trên tờ Foreign Policy ngày 7/3/2017. Cách dòng và tiểu sử tác giả là của người dịch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét