Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2018

7450 - Chuyện dạy học (trích đoạn)


Đời dạy học của tôi gắn với Trường dự bị đại học TP.HCM 17 năm trời (từ năm 1977 đến 1993, thêm năm 1995 sau đó). Gần như phần tuổi xuân, cái thời hăng hái nhất tôi gắn với nghề dạy, sau này bỏ nghề, những lúc vẩn vơ nghĩ lại cũng tiêng tiếc.


Khoảng mấy năm đầu thập niên 80, hình như năm 1982 thì phải, phong trào luyện thi đại học được khơi lên. Đành rằng do nhu cầu mà phát sinh nhưng có thể nói luyện thi đã dần dà làm hỏng chất lượng đại học. Những học sinh trình độ kém, ít tài năng sau cú trượt lần 1 đã dồn hết sức cho đợt luyện thi, chỉ học ròng rã 3 môn theo khối thi, làm gì mà không đủ khả năng đánh bật những học sinh phổ thông mới tốt nghiệp, tuy khá và giỏi nhưng vừa trải qua kỳ thi vất vả, đã mệt nhoài nên khó đua tranh.


Trong suốt gần hai chục năm trời, Trường dự bị đại học TP.HCM nổi tiếng là trung tâm luyện thi uy tín, mỗi năm thu hút hàng nghìn học sinh khắp cả miền Nam. Có những năm, vào thời điểm hoàng kim luyện thi, thầy Hiệu trưởng Nguyễn Văn Năm phải ra lệnh hạn chế nhận thí sinh vào trường mặc dù nhận vào là có tiền, bởi không đủ chỗ học, ngoài ra giáo viên dồn giờ dạy cho luyện thi nhiều quá nên chểnh mảng nhiệm vụ chính. Đồng tiền kiếm từ luyện thi giúp cho đời sống giáo viên khá hơn nhưng hầu như chả mấy ai nghĩ rằng chính họ đã góp phần làm hư hỏng hệ đại học. Tôi có anh bạn là giảng viên Trường đại học Tổng hợp, bên ấy cũng căng ra luyện thi, anh kể có ngày dạy luyện thi tới 10 tiết, sáng 4, chiều 4, tối 2, chỉ kịp nhét miếng cơm vào mồm rồi cuống cuồng lên lớp. Lúc nào cũng thèm ngủ. Sài Gòn những năm đó trong giới giáo viên tồn tại một câu lạc bộ có tên CLB 30 triệu. Ai dạy luyện thi thu nhập 30 triệu đồng/tháng thì đương nhiên được gia nhập CLB này. Đồng tiền khiến nhiều thầy cô bị say, say tiền. Một thầy ở trường tôi cũng vậy, thầy Nguyễn Loan dạy toán, dạy nhiều đến mức bị kiệt sức, suy nhược cơ thể, vào bệnh viện được vài hôm thì mất.


Nhưng không phải thầy cô nào cũng khá lên nhờ luyện thi đại học. Chủ yếu là các môn phục vụ khối thi A và B thôi (toán, lý, hóa, sinh) chứ đám thầy cô văn sử địa hầu hết đói dài. Tôi cố trụ mãi nhưng học sinh luyện thi môn văn cứ ngày càng ít dần. 


Túng đói quá thì phải… liều. Nhà trường cho phép công đoàn tổ chức giữ xe cho sinh viên. Đám giáo viên đói được ưu tiên tham gia. Thật trớ trêu, cứ đầu giờ thì tay cục phấn, tay cầm nắm thẻ xe, ghi số, thu tiền, học sinh vừa dắt xe vào vừa “em chào thầy cô ạ”. Lúc đầu còn chào lại mà chả giấu hết sự ngượng ngùng, về sau chúng hắn biết ý không chào nữa, lặng lẽ đưa tiền, tiền dư cũng không lấy lại. Chuông reo, rửa tay, vuốt vội bộ quần áo, lại trèo lên bục giảng ê a tác phẩm này hay, tác phẩm kia tốt. Có hôm còn dạy cả tác phẩm Sống mòn của Nam Cao, có hôm dạy bài nghề cao quý của người thầy. Nhìn vào mắt trong veo của sinh viên, biết chúng nghĩ gì. Trớ trêu vô cùng.


Có những thầy cô ngượng, giữ xe được vài bữa thì bỏ. Nhưng phải làm cái gì mà sống chứ. Thế là người nuôi gà, người nuôi cá trê phi, nuôi chim cút, làm sữa chua, bỏ mối nước đá... Mỗi phòng ở chỉ chưa đầy 20 mét vuông. Thầy Tuấn dạy địa lý dẹp hết cả đồ đạc giường chiếu vào một góc, nuôi gần 5 chục con gà mái đẻ trong phòng. Chưa bước vào nhà đã sặc mùi phân gà, mùi cám, mùi khổ ải. Thầy Vy mua gạch xây hẳn trong nhà cái bể to đùng nuôi cá trê phi. Nước máy không đủ dùng, người tắm cũng phải hạn chế tiết kiệm từng giọt nhưng nước cho các “ông bà trê phi” (thầy Vy bảo thế) lúc nào cũng phải sạch. Nhà nước khó khăn không nuôi nổi mình thì đành nhờ cậy “các ông bà” gà qué, chim cút, trê phi gánh đỡ qua cơn hoạn nạn chứ biết làm sao. Đời dạy học những năm đó thực khổ trăm bề. 


Chả muốn kéo dài tình trạng vừa lên lớp vừa giữ xe muối mặt với học trò, vừa nuôi gà công nghiệp, nuôi cá, dán phong bì… nên đầu năm 1993 tôi quyết định xin nghỉ, đi làm thuê cho nước ngoài. Thầy Nguyễn Văn Vy bạn tôi đùa bảo giá dấn đi thêm tí nữa ra bến Nhà Rồng nhân tiện tìm đường cứu nước cứu nhà luôn có phải một công đôi việc không. Chua chát lắm. Tôi xuống phòng hành chính ký nhận cái quyết định nghỉ việc và qua phòng tài vụ lĩnh cục tiền, được hơn 3 triệu đồng, tính ra sau 16 năm làm việc cho nhà nước được trả gần 7 chỉ vàng. Số tiền ấy chưa kịp dùng vào việc gì thì một người quen là bộ đội ở Cần Thơ lên hỏi mượn, hẹn 1 tuần trả. Vợ chồng tôi nể quá, đưa rồi mà linh cảm cứ lo lo. Sau 2 tuần vẫn chả thấy y đâu, từ bấy không gặp lại con nợ nữa. Năm lần bảy lượt xuống Cần Thơ dò hỏi, hóa ra anh ta sai phạm bị quân đội loại ngũ, đã lừa một lượt tất tật người quen rồi cả vợ con kéo nhau bùng mất. Sau 16 năm, tôi quay lại thời ban đầu với hai bàn tay trắng.


Như tôi từng kể, cùng trường, có nhiều thầy cô giáo cũ dạy ở Sài Gòn trước năm 1975 rất giỏi. Một hôm, tôi hỏi thầy Chu Đức Khánh, giáo viên toán, sao mà anh học kinh thế, vừa lấy bằng cử nhân toán của Đại học Khoa học Sài Gòn (anh Khánh là học trò cưng của thầy GS Đặng Đình Áng), vừa lấy bằng tốt nghiệp Viện quốc gia Âm nhạc Sài Gòn, anh ấy cười, bảo tưởng gì, sinh viên miền Nam trước 1975 học 2 - 3 trường cùng lúc là chuyện thường. Các trường đại học đều mở rộng cửa, cứ đậu tú tài 2, đăng ký, đóng tiền là học, muốn học bao nhiêu cũng được. Làm gì có chuyện chen nhau luyện thi như bây giờ. Quan trọng là cái đầu ra, chất lượng của đầu ra. Nền đại học của miền Nam trước 1975 không quan tâm đến đầu vào, chỉ cốt đầu ra thôi. Học thế nào thì học, phải thi lấy đủ chứng chỉ, không đủ và tất nhiên là không đạt chất lượng thì cứ việc học cho đến già hoặc vào lính. Thầy Nguyễn Hữu Pha nói thêm, ra trường mà đi dạy, như tôi đây này (thầy Pha chỉ vào mình), lương 32.000 đồng, nuôi cả nhà. Chỉ tiết kiệm 2 tháng là mua được chiếc xe Honda Dame mới cứng. Mà giáo viên ít chịu chạy Honda, phải Vespa cơ, mới đúng kiểu. Nghe thầy nói, tôi ngẩn ngơ, nhìn vào đám mấy con gà mái đẻ xơ xác thiếu cám, cả tuần nay chẳng cho quả trứng nào.


Giờ nhớ lại chuyện cũ của thầy Khánh, thấy đúng là nền đại học của chế độ mới càng ngày càng đi xuống. Trường lớp mở thêm nhiều, giáo viên ngày càng đông nhưng chất lượng giáo dục cứ ngày càng tệ hại. Những kỳ thi tuyển sinh mỗi năm thêm nặng nề, tốn kém, trở thành thứ tai ách cho xã hội. Bao nhiêu tiền của, công sức đổ vào thứ thủ tục hành dân vĩ đại ấy nhưng vẫn không làm những người cai quản giáo dục vừa lòng. Họ liên tục bày vẽ ra đủ thứ, miệng kêu đổi mới nhưng lại là những người bảo thủ nhất. Cứ điểm lại, nền giáo dục của chế độ này, dù so với thời thuộc Pháp đã kém xa về chất lượng nhưng ít ra có thời gian dài trước 1975 cũng ghi điểm được vào thời các bộ trưởng, những vị thượng thư đầu ngành uy tín như Tạ Quang Bửu (Bộ ĐH và THCN), Nguyễn Văn Huyên (Bộ Giáo dục), nhưng rồi cứ trượt dần, càng ngày càng xa so với cũ và với thế giới xung quanh. Người ta đùa nhau: Trường chẳng ra trường, lớp không ra lớp, thầy chả ra thầy, trò chẳng ra trò, đó là nền giáo dục Việt Nam sau 1975. Trải qua các đời thượng thư bộ đại học và giáo dục (sau này gộp thành Giáo dục – đào tạo) Nguyễn Thị Bình, Phạm Minh Hạc, Trần Hồng Quân, Nguyễn Minh Hiển, Nguyễn Thiện Nhân, Phạm Vũ Luận, Phùng Xuân Nhạ, giáo dục nước nhà ngày càng bết bát, như ngôi nhà mục nát chờ ngày đổ sụp. Đó là đỉnh cao chói lọi của nền giáo dục do những người cộng sản lãnh đạo.


Bây giờ mở mắt ra là nhìn thấy trường đại học. Họ mở nhan nhan trên khắp nước. Một xã hội được đại học hóa một cách khiên cưỡng. Các ông Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Thiện Nhân có công đầu trong việc tạo rác đại học cho xứ này, nay thì ông Nguyễn Xuân Phúc tha hồ mà dọn. Ông Dũng đã hạ cánh an toàn, giờ sống chết mặc bay. Ông Nhân chẳng những không bị xử lý gì mà ngày càng leo cao, làm đến Ủy viên Bộ Chính trị trong bộ máy chóp bu triều đình. Một nước có hàng vạn giáo sư, phó giáo sư, hàng mấy trăm nghìn tiến sĩ nhưng hầu như không có công trình khoa học nào đáng kể với thiên hạ. Mỗi năm gần 200.000 thạc sĩ, cử nhân thất nghiệp không có công ăn việc làm mà lý do cơ bản là trình độ quá kém… Nhưng cứ như những kẻ đui điếc liều, hằng năm người ta vẫn ào ào mở trường đại học, rầm rộ thi cử, tuyển sinh, thu tiền, coi như không có chuyện gì xảy ra.


Con thuyền giáo dục xứ này, buồm thì rách nát, thuyền trưởng và thủy thủ lọng cọng, u tối, chưa cần ra biển rộng, chỉ quanh quẩn trong cừ kênh mương rạch ao tù hồ cạn cũng đã đủ chao đảo, chấp chới, đắm chìm.


Nhiều lúc ngẫm nghĩ thấy buồn cho nghề, cái nghề mà có thời lòng tôi ca hát “Yêu người bao nhiêu, ta càng yêu nghề bấy nhiêu”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét