Nếu
chúng ta nhìn vào các hệ thống luật pháp trên thế giới
hiện nay thì quan điểm ép luật sư phải tố cáo hành vi phạm tội của thân
chủ tỏ
ra rất lạc lõng và phi lý, nhưng cũng có một số ngoại lệ rất hiếm hoi.
Những người ủng hộ quan điểm này muốn luật hoá nó trong Bộ
luật Hình sự 2015, lồng nó vào tội không tố giác tội phạm.
Tội không tố giác tội phạm (misprision) đã từng nằm trong
các bộ luật hình sự của hệ thống thông luật
(common law) Anh – Mỹ, và là một tội tiểu hình (misdemeanor).
Hệ thống luật dân sự (civil law) của châu Âu cũng có điều luật
tương tự. Và đúng như đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Thủy (Bắc Kạn) đã phát biểu,
điều luật này vốn thường được áp dụng với các tội phản quốc (treason) vào thời
Trung cổ và dưới các chế độ quân chủ.
Nhưng đến thời điểm hiện tại, nó đã bị xóa bỏ hoặc được thay
thế bằng các điều luật khác, ví dụ như tội đồng phạm (conspiracy) hoặc che giấu
tội phạm một cách cố ý (active concealment).
Điều đó có nghĩa là, tại các nước pháp quyền (rule of law),
không một ai, kể cả luật sư, có nghĩa vụ phải tình nguyện tố giác tội phạm và
phải chịu trách nhiệm hình sự khi không làm điều đó.
Trong khi đó tại Việt Nam, phạm vi áp dụng của Điều 19, BLHS
2015 – Tội không tố giác tội phạm – lại rất rộng. Và nó bao gồm tất cả chúng
ta.
Khoản 1 của Điều 19 quy định bất kỳ ai nếu biết rõ tội phạm
đang được chuẩn bị thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội không tố giác tội phạm.
Khoản 2 của Điều 19 quy định, ông, bà, cha, mẹ, con, cháu,
anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải tố giác các tội đặc
biệt nghiêm trọng và các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Tương tự như khoản 2, khoản 3 Điều 19 quy định (là điều khoản
đang gây tranh cãi tại Quốc hội), luật sư phải tố giác các tội đặc biệt nghiêm
trọng và các tội xâm phạm an ninh quốc gia của thân chủ mà họ biết được khi thực
hiện nghĩa vụ bào chữa.
Việc một người không tố cáo tội phạm hoàn toàn khác với hành
vi giúp đỡ, che giấu người phạm tội. Vì người biết về hành vi phạm tội của một
người khác không đồng nghĩa với việc họ cũng tham gia và giúp đỡ tội ác được thực
hiện hay cố ý che giấu.
Do đó, Điều 19 áp đặt một cách không thỏa đáng lên người dân
một nghĩa vụ pháp lý thừa thãi và lỗi thời vì BLHS vốn đã có quy định về đồng
phạm (Điều 17) và che giấu tội phạm (Điều 18).
Luật sư nhân quyền Amal Clooney (trái), đại diện cho người
sáng lập WikiLeaks, Julian Assange trong vụ kiện dẫn độ của ông này tại Anh năm
2011. Ảnh: Yui Mok PA Archive/PA Images.
Đặc quyền của mối quan hệ giữa luật sư và thân chủ
Những ý kiến của các đại biểu phản đối quan điểm của bà Nguyễn
Thị Thuỷ tập trung phần lớn vào vấn đề đạo đức nghề nghiệp của luật sư, cũng
như các định chế về nghề luật dựa theo Hiến pháp.
Theo đó, ngay khi Điều 19 vẫn được ban hành thì luật sư vẫn
không nên là đối tượng bị áp dụng.
Các đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh, Nguyễn Văn Chiến, Chủ tịch và
Phó Chủ tịch Liên đoàn LS Việt Nam, cùng với đại biểu Trương Trọng Nghĩa của
TP.HCM đã nhấn mạnh, khoản 3 của Điều 19 sẽ gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến
công việc của các luật sư, và có thể khiến họ không thể bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của người dân trong các vụ kiện.
Quan điểm này dựa trên hai nguyên tắc:
Một, nghĩa vụ im lặng của luật sư xuất phát từ quyền im lặng
của bị can, bị cáo. Vốn dĩ bị can, bị cáo không phải khai báo bất kỳ điều gì về
bản thân, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra. Bị can, bị
cáo cần luật sư, trong hầu hết các trường hợp là thuê luật sư, để bảo vệ quyền
của mình, chứ không phải để luật sư đem thông tin đi nói cho người khác biết.
Hai, mối quan hệ giữa luật sư và thân chủ được bảo vệ bởi đặc
quyền về bảo mật thông tin (confidentiality), bất kể là vụ án hình sự hay dân sự.
Đây cũng là vấn đề nguyên tắc đạo đức của nghề luật sư, được các luật sư đoàn
quy định.
Luật sư và thân chủ cần có đặc quyền về bảo mật thông tin,
vì đó chính là điều kiện tối cần thiết để thiết lập sự tin tưởng tuyệt đối giữa
họ.
Trước hết, một luật sư muốn làm tròn trách nhiệm biện hộ thì
cần có đầy đủ tất cả thông tin liên quan đến hồ sơ vụ án, đặc biệt là những
thông tin từ chính người mà mình bào chữa.
Đặc biệt, trong các vụ án hình sự, nghi phạm sẽ không thể
nào tin tưởng nhân viên điều tra để chia sẻ tất cả thông tin, vì họ sợ sẽ có
thông tin gây bất lợi cho họ. Vì thế, luật sư biện hộ chính là người mà nghi phạm
phải tin tưởng nhất.
Vậy thì làm thế nào để khiến một người tin tưởng và chia sẻ
tất cả với luật sư, kể cả những thông tin mang tính bất lợi hay có thể gây ra
tranh cãi?
Trong các hệ thống tư pháp trên thế giới, đặc biệt ở châu Âu
và Mỹ, thông tin trao đổi giữa luật sư và khách hàng được bảo vệ bởi “đặc quyền
của mối quan hệ giữa luật sư và thân chủ” (attorney-client relationship). Đặc
quyền này bắt buộc luật sư phải bảo vệ thông tin của người khách một cách tuyệt
đối.
Nguyên tắc bảo vệ tuyệt đối bí mật (confidentiality) về
thông tin của khách hàng còn là một quy tắc đạo đức của nghề luật sư.
Để đảm bảo được nguyên tắc này, khi được thân chủ chia sẻ những
thông tin trong phạm vi mối quan hệ luật sư-thân chủ (attorney-client
relationship), thì luật sư không bị bắt buộc phải tố cáo thân chủ và không phải
chịu trách nhiệm hình sự về việc biết mà không tố giác tội phạm.
Mà ngược lại, luật sư có nghĩa vụ phải giữ bí mật tuyệt đối
về những thông tin đó. Nếu luật sư phá vỡ nguyên tắc này thì có thể phải đối mặt
với việc bị luật sư đoàn kỷ luật hoặc bị thân chủ khởi kiện dân sự.
Luật sư có thể tự giác tố cáo, chứ không bị ép buộc
Ở Mỹ, đặc quyền giữa luật sư và thân chủ chỉ có thể bị phá vỡ
trong một số trường hợp rất hạn hữu mà không bị coi là vi phạm đạo đức nghề
nghiệp và không bị luật sư đoàn khai trừ hay phải chịu trách nhiệm dân sự.
Trường hợp thứ nhất, theo Điều 1.6 (b)(1) của Bộ quy tắc nghề
nghiệp luật sư do Luật sư đoàn Hoa Kỳ (American Bar Association) soạn thảo, thì
luật sư có thể tự giác thông báo đến cơ quan chức năng những thông tin về hành
vi phạm pháp của thân chủ, khi luật sư biết khả năng rất cao là nó sẽ chắc chắn
xảy ra.
Chúng ta có thể tham khảo một ví dụ được Luật sư đoàn Hoa Kỳ
đưa ra.
Nếu một luật sư biết chắc thân chủ của mình – là một tập
đoàn lớn – có hành vi xả thải trái phép vào một nguồn nước gây tác hại đến cho
người dân và môi trường trên một diện rộng, thì có thể báo với chính quyền mà
không bị quy là vi phạm đạo đức nghề nghiệp và phá vỡ nguyên tắc bảo đảm bí mật
của thân chủ.
Tuy nhiên, nếu luật sư đó không báo với chính quyền thì cũng
không thể bị truy tố trách nhiệm hình sự về tội không tố giác hành vi phạm tội
của thân chủ. Luật pháp chỉ truy cứu nếu luật sư là đồng phạm và thật sự tham dự
vào hành vi phạm pháp.
Chẳng hạn như trong ví dụ vừa nêu, nếu luật sư cùng bàn bạc
và vạch ra kế hoạch xả thải trái phép cùng với người khách của mình, thì lúc
đó, luật sư là đồng phạm và phải chịu chế tài của pháp luật.
Trường hợp thứ hai thường được gọi là “ngoại lệ nhằm ngăn ngừa
tội phạm” (crime-fraud prevention exception) trong Điều 1.6 (b)(2) của Luật sư
đoàn Hoa Kỳ. Khi luật sư, thông qua mối quan hệ luật sư và thân chủ mà biết được
người thân chủ của mình đã lên kế hoạch chuẩn bị phạm tội hình sự hoặc một tội
lừa đảo, thì có thể phá vỡ nguyên tắc bảo đảm bí mật thân chủ và khai báo hành
vi này với chính quyền.
Nguyên tắc “ngoại lệ nhằm ngăn ngừa tội phạm” thông thường
được áp dụng trong những trường hợp của các tội đại hình (felony) đặc biệt nguy
hiểm đến tính mạng và tài sản của người khác. Và nó cũng chỉ là một ngoại lệ
(exception to the rule) cho nguyên tắc bảo mật chung của mối quan hệ luật
sư-thân chủ.
Những ví dụ cho những thông tin mà luật sư có thể áp dụng
ngoại lệ này để thông báo với chính quyền có thể là tin tức về một nạn nhân
đang bị mất tích trong một vụ án, hay khi thân chủ đưa ra lời lẽ đe dọa đến
tính mạng của người khác, nhân viên điều tra, hay thẩm phán, nhân chứng của vụ
án, v.v.
Trường hợp thứ 3 cũng dựa trên nguyên tắc “ngoại lệ nhằm
ngăn ngừa tội phạm”. Luật sư trong quá trình đại diện, có thể tình cờ biết được
thân chủ mình đã từng thực hiện một tội hình sự hoặc lừa đảo nào khác, không nằm
trong khuôn khổ của mối quan hệ luật sư-thân chủ.
Ví dụ như đang nhận bào chữa một vụ án kinh tế nhưng luật sư
lại biết được thân chủ của mình đã mướn người mưu sát đối thủ thương trường của
mình, và vụ án mưu sát đó đã không có manh mối trong vài năm.
Tương tự như trên, nếu việc báo với chính quyền sẽ giúp giảm
thiểu thương vong hay thiệt hại cho nạn nhân hay thân nhân của họ, thì luật sư
có thể làm điều này mà không bị cáo buộc là đã phá vỡ nguyên tắc đạo đức nghề
nghiệp.
Trách nhiệm của luật sư trong những trường hợp kể trên, theo
kiến nghị của Luật sư đoàn Hoa Kỳ, là phải khuyến cáo thân chủ từ bỏ ý định phạm
tội, kết thúc hợp đồng đại diện nếu thân chủ kiên quyết không từ bỏ, và tuyệt đối
không được phép đưa ra lời khuyên hay giúp đỡ thân chủ thực hiện hành vi phạm
pháp.
Trong cả ba trường hợp được nêu, việc tự giác thông báo đến
chính quyền từ phía luật sư đều không đồng nghĩa với việc luật sư có nghĩa vụ
phải tố giác như Điều 19 BLHS 2015.
Cô Đoàn Thị Hương, nghi phạm ám sát anh trai của lãnh tụ Triều
Tiên Kim Jong-un, và luật sư người Malaysia của cô. Ảnh: Zing.
Ngoại lệ: Luật sư có thể bị ép buộc khai báo trong những
tình huống rất ngặt nghèo
Tòa án cũng có thể sử dụng trát tòa (subpoena) để yêu cầu luật
sư đưa ra lời khai liên quan đến thông tin của thân chủ. Trong trường hợp đó,
luật sư có thể đưa ra thông báo với tòa (motion to the court) là thông tin mà
mình cung khai có thể nằm trong phạm vi của đặc quyền luật sư-thân chủ. Thẩm
phán của phiên xử đó sẽ phải đưa ra một phán quyết (ruling) là luật có cho phép
luật sư đưa ra lời khai hay không.
Nếu là có cho phép, luật sư phải tiếp tục thông báo đến người
thân chủ của mình vì thân chủ có quyền kháng cáo lên tòa cấp cao hơn (seeking
judicial review of an appeal court). Chỉ khi tất cả các thủ tục pháp lý đã được
sử dụng và đều được tòa phán là luật sư có thể phá vỡ nguyên tắc bảo mật trong
trường hợp này, thì luật sư có thể đưa ra lời khai. (Xin xem thêm tại Điều 1.6
(b)(6) về Quy tắc nghề nghiệp của Liên đoàn luật sư Hoa Kỳ).
Nếu đã có lệnh (order) của tòa yêu cầu đưa ra lời khai, mà
luật sư vẫn kiên quyết không cung cấp thông tìn về thân chủ, thì luật sư có thể
phải đối mặt với việc bị tòa phạt vạ vì đã “miệt thị tòa án” (contempt of
court).
Tuy nhiên, vì nguyên tắc của nghề luật là phải đảm bảo bí mật
của khách hàng, trường hợp tòa án đưa ra phán quyết là luật sư có thể phá vỡ nó
để khai ra thông tin bất lợi với thân chủ cũng là việc rất hy hữu và phải có lý
do hết sức nghiêm trọng, ví dụ như tính mạng của một hoặc nhiều người đang gặp
nguy hiểm.
Thông thường, thẩm phán chỉ cho phép luật sư đưa ra lời khai
khi nội dung của nó nằm trong phạm vi của “ngoại lệ nhằm ngăn ngừa tội phạm”.
Ngoài ra, khi người thân chủ cũ và luật sư có tranh chấp dân
sự liên quan đến một vụ việc mà luật sư đã đại diện trong quá khứ, thì luật sư
cũng có quyền được phá vỡ đặc quyền bảo mật. (Điều 1.6(b)(4),(5) về Quy tắc nghề
nghiệp của Liên đoàn luật sư Hoa Kỳ).
Nguyên tắc bảo mật thông tin của khách hàng cũng không phải
chỉ được áp dụng riêng ở Mỹ.
Dựa trên báo cáo cập nhật của ngài D.A.O. Edward, QC gửi đến
Uỷ ban Luật gia của Liên minh châu Âu năm 2003, các nước châu Âu (và ngay cả các
nước không nằm trong Liên minh Châu Âu – EU) đều có những điều luật bảo vệ bí mật
của thân chủ tương tự như Mỹ.
Bảo vệ bí mật của thân chủ được các hệ thống tư pháp trên
xem là một yếu tố quyết định sự sống còn của mối quan hệ giữa luật sư và thân
chủ của mình.
Hơn một thập kỷ qua, luật sư VN vẫn vướng khả năng bị tội
không tố giác tội phạm khi bào chữa cho thân chủ (Ảnh: Báo PL TPHCM tháng
2/2004)
Qua những phiên tranh luận giữa các đại biểu Quốc hội trong
những ngày vừa qua, chúng ta có thể thấy tính cấp bách của việc cần phải xác định
những tiêu chuẩn và quy tắc cho mối quan hệ giữa luật sư và thân chủ tại Việt
Nam.
Đặc quyền bảo mật không chỉ là một khái niệm pháp lý của Tây
phương, và cũng không phải là điều xa lạ ở châu Á.
Trung Quốc đã tiến hành cải cách tư pháp trước Việt Nam, và
mở lại trường luật từ năm 1978. Mô hình của hệ thống tư pháp Trung Quốc khá giống
với Việt Nam. Thế nhưng, Trung Quốc đã có không ít nghiên cứu rất nghiêm túc về
đặc quyền bảo mật của những thông tin được trao đổi giữa luật sư và thân chủ.
Hiện nay, theo nghiên cứu của Giáo sư Luật Leah Christensen của Đại học Luật
Thomas Jefferson đưa ra vào năm 2011, Trung Quốc đã bắt đầu có những dự thảo luật
được đề xuất nhằm bảo vệ quy tắc bảo mật các thông tin đó.
Không có đặc quyền bảo mật giữa luật sư và thân chủ thì họ
không thể xây dựng được sự tin tưởng cần thiết để việc bào chữa có thể thực hiện
một cách hữu hiệu nhất. Nếu người dân không được hưởng quyền được bào chữa một
cách tốt nhất thì các bản án oan sai vẫn và sẽ tiếp tục xảy ra.
Đây chính là một sự bất cập khác mà khoản 3 của Điều 19,
BLHS 2015 mang lại, và đó là lý do điều này phải được sửa đổi, hoặc tốt hơn hết,
là xóa bỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét