Bức tranh đối thoại
Ngày 16/12/2016, tại “Hội nghị
Văn học 2016” do Hội Nhà văn Viêt Nam tổ chức, ông Nguyễn Hữu Thỉnh cho biết sắp
tới Hội sẽ xin ý kiến để tổ chức một “Hội nghị Hòa hợp Văn học Dân tộc” với sự
tham gia của các nhà văn trong nước với các nhà văn Việt Nam đang sinh sống tại
nước ngoài. Ông Thỉnh còn nói rằng cho đến nay, việc hòa hợp dân tộc trong lĩnh
vực văn nghệ vẫn dè dặt và lạc hậu nhất so với các lĩnh vực khác. Tuy dư luận
cho rằng tổ chức một hội nghị như vậy là chưa từng có tiền lệ trong lịch sử,
nhưng chắc không phải là vô cớ mà ông Thỉnh đề xuất như vậy (khi Hội không còn
kinh phí hoạt động). Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có dấu hiệu nào cho thấy việc
đó sẽ thành hiện thực. (Tuổi Trẻ, 17/12/2016).
Ngày 18/5/2017, tại hội nghị trực
tuyến sơ kết một năm triển khai thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, ông Võ Văn Thưởng
cho biết “Ban Tuyên giáo đang chờ Ban Bí thư thông qua văn bản hướng dẫn tổ chức
trao đổi và đối thoại với những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đường lối,
chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước”. Theo ông Thưởng, đây
là vấn đề rất quan trọng. “Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi
vì sự phát triển của mỗi lý luận và học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa
trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để
hình thành chân lý”. ông Thưởng cũng cho rằng cần có quy định rõ ràng để từng cấp,
từng ngành, từng cơ sở, từng đơn vị xác định rõ trách nhiệm của mình và phương
pháp trong trao đổi, đối thoại. (Pháp Luật, 18/5/2017).
Tuy chưa biết ý định đối thoại đó
thực hư thế nào, là dấu hiệu đổi mới hay chỉ là bánh vẽ, nhưng phản ứng của dư
luận, nhất là của giới trí thức phản biện, rất sôi nổi và trái chiều, thậm chí
tranh cãi như mổ bò. Trong khi một số người tỏ ra nghi ngờ, cho rằng cơ hội
chưa đến và nên chờ thêm, thì nhiều người khác lại tỏ ra quá sốt sắng, “vội vã,
sốt ruột, cuống quýt” để “chớp thời cơ” như sợ mất lượt (Phạm Chí Dũng,
24/5/2017). Đó là một bức tranh phản cảm so với bài học Đồng Tâm. Khi những người
nông dân đồng tâm nhất trí, đấu tranh quyết liệt, thì họ buộc chính quyền phải
đối thoại, trong khi giới trí thức hô hào đối thoại, thì chỉ nhận được sự im lặng.
Có lẽ họ cần đối thoại với nhau trước khi đối thoại với chính quyền. Vậy cái gì
mở cửa đối thoại (như “vừng ơi mở cửa ra!”) và quan trọng hơn là cái gì làm cho
đối thoại thực chất và kết quả? Có lẽ giới trí thức cần học hỏi kinh nghiệm “đối
thoại Đồng Tâm” (22/4/2017).
Đối thoại hay độc thoại
Về nguyên lý truyền thông (communication),
thông tin phát ra chỉ có ý nghĩa và hiệu quả khi nó được phản hồi trở lại
(feedback), hình thành tương tác hai chiều. Hay nói cách khác, có người nói thì
phải có người nghe. Nếu chỉ nói mà không có phản hồi là độc thoại (một chiều),
không có giá trị truyền thông. Đối thoại (hai chiều) là một cách truyền thông
hiệu quả, và độc thoại là ngược lại nguyên lý truyền thông. Theo Aristotle
(384-322 BC), truyền thông muốn có hiệu quả thường dựa trên nguyên lý “Ethos –
Logos – Pathos”, theo đó người nói và người nghe phải tương tác và giao hòa
(rapport), để quá trình phản hồi hay phản biện có ý nghĩa. Trong đối thoại, nhất
là trong tranh luận (debate), “tư duy phản biện” (critical thinking) là cần thiết
để thuyết phục lẫn nhau, trên cơ sở hai bên phải ôn hòa và lắng nghe lẫn
nhau.
Vì nhiều lý do, người ta cho rằng
đa số người Việt Nam yếu kém về năng lực truyền thông, do thiếu văn hóa đối thoại
và tư duy phản biện như các dân tộc khác, vì xã hội Việt Nam vốn khép kín, do
chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Khổng (trước đây) và chủ nghĩa Mao (sau này). Từ
nhỏ, chúng ta được dạy bảo trong nhà trường và gia đình về đạo lý ứng xử là phải
“ngoan”, vâng lời cha mẹ và không được cãi cấp trên. Năng lực truyền thông yếu
kém (về đối thoại và phản biện) bị thể chế chính trị làm cho vô hiệu hóa và
thui chột. Hầu như chúng ta không có thói quen tranh luận và thiếu văn hóa đối
thoại. Trong bối cảnh người Việt Nam nay cần tranh luận để đổi mới, thì những tổ
chức dân sự có vai trò phản biện xã hội hầu như trống vắng. Viện IDS (Institute
of Development Studies) vừa mới thành lập đã bị giải thể (9/2009).
Tại sao phải đối thoại
Hiện nay, nhu cầu đối thoại và phản
biện xã hội nhằm đóng góp cho đổi mới “vòng hai” đang trở nên cần thiết hơn bao
giờ hết. Nhưng đáng tiếc là lúc này văn hóa đối thoại và tư duy phản biện trong
giới lãnh đạo cũng như trong dân lại bị thui chột và tụt hậu như trình độ phát
triển kinh tế. Nói cách khác, khi yêu cầu đổi mới cao, thì năng lực đáp ứng lại
thấp. Năng suất lao động thấp vì chất lượng nhân lực không cao. Năng lực chém
gió không thể thay thế năng lực tư duy và hành động. Lãnh đạo và người dân hầu như
chưa sẵn sàng, giống như khi con tàu Titanic bị nạn sắp chìm thì rất nhiều người
không biết bơi, và không biết đối phó thế nào. Chưa biết mục đích đối thoại là
nhằm tìm kiếm đồng thuận quốc gia để cứu con tàu, hay chỉ nhằm PR để tìm kiếm một
cái xuồng cứu hộ nào đó, khi đối thoại Việt-Mỹ về nhân quyền đang diễn ra, trước
khi thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đi thăm Mỹ (29-31/5/2017).
Như đã đề cập nhiều lần, những động
lực đổi mới “vòng một” đã hết đà, không còn tác dụng. Vì vậy cấp thiết phải đổi
mới “vòng hai” nhằm tháo gỡ thể chế, đặc biệt là thể chế chính trị và những rào
cản của hệ thống cũ, để giải phóng năng lượng sáng tạo và động lực phát triển
còn tiềm ẩn. Nói cách khác, lúc này đổi mới thể chế chính trị là cái chìa khóa
(như nguyên lý Pareto) để tháo gỡ nút thắt cổ chai về thể chế đang làm ách tắc
cả hệ thống. Về thể chế chính trị, yêu cầu quan trọng nhất là đổi mới hiến
pháp, để từng bước dân chủ hóa, thay thế dần chế độ độc quyền độc đảng bằng tam
quyền phân lập. Về thể chế kinh tế, yêu cầu cấp bách hiện nay là cắt bỏ cái
đuôi “định hướng XHCN” để giải phóng kinh tế thị trường.
Vì lòng tin của dân chúng đã xuống
đến mức thấp nhất, nên nhiều người nghi ngờ mục đích đối thoại lúc này cũng
không phải để tìm kiếm sự đồng thuận nhằm đổi mới, mà chỉ để đối phó với Mỹ về
hồ sơ nhân quyền, thậm chí những người bất đồng chính kiến vẫn sợ bị gài bẫy
như trò chơi “trăm hoa đua nở” trước đây. Thái độ không lắng nghe dân, im lặng
không thèm trả lời các kiến nghị tâm huyết, chứng tỏ chính quyền không thực tâm
tôn trọng trí thức. Vì vậy, muốn đối thoại trước hết phải xây dựng lòng tin
(confidence building), vì khủng hoảng lòng tin và nỗi lo sợ nghi ngờ trong tiềm
thức (của cả hai phía) là một rào cản tâm lý.
Đối thoại về cái gì
Người ta hay nói nhà nước ta là
“của dân, do dân, vì dân”. Đó là một khẩu hiệu dân túy rất hay nhưng vô nghĩa,
vì chính quyền toàn làm ngược lại. Nay người ta lại nói chính quyền “không sợ đối
thoại, không sợ tranh luận…”. Đó cũng là
một tuyên ngôn dân vận hay, nhưng phản ánh tâm thức bị động đối phó như “hội chứng
soi gương” (mirror image) muốn phủ định tâm trạng vừa lo sợ vừa kiêu ngạo, nay
bí cờ nên buộc phải tìm nước cờ khác. Nước cờ đối thoại đã được thử nghiệm tại
Đồng Tâm, không phải do tự nguyện mà do tình thế bắt buộc. Tuy Đồng Tâm đã “biến
điều không thể thành có thể”, nhưng hãy còn quá sớm để cho rằng “giải pháp Đồng
Tâm” là không thể đảo ngược. Trong binh pháp, mọi cái đều có thể.
Có hai tình huống và kịch bản có
thể xảy ra. Thứ nhất, khi xảy ra tình huống như Đồng Tâm, (hay Formosa), nếu
phái ôn hòa và cải cách cầm trịch thì có thể dẫn đến đối thoại và hòa giải (như
Myanmar). Thứ hai, nếu phái cực đoan và bảo thủ cầm trịch thì có thể dẫn đến
đàn áp và bạo lực (như Thiên An Môn). Giữa hai thái cực đó là một khoảng xám bất
định (uncertain gray area) có thể “diễn biến” trái chiều, tùy thuộc vào cán cân
lực lượng. Nhiều người Việt hay ngộ nhận
và nhầm lẫn, nên dễ bị ảo tưởng vì tự huyễn hoặc. Ngộ nhận là một căn bệnh khó
chữa, nhưng còn khó chữa hơn nếu ngộ nhận bị bội nhiễm bởi cực đoan, dẫn đến biến
chứng rất nguy hiểm. Nếu những người cực đoan và ngộ nhận tham gia đối thoại
thì rất khó đi đến đồng thuận để có kết quả, vì họ giống như những người “điếc
chuyên nghiệp”.
Muốn đối thoại phải tránh cực
đoan. Những người chống cộng cực đoan cũng nguy hiểm không kém gì những người cộng
sản cực đoan. Họ sẵn sàng chụp mũ cho những người không cùng quan điểm với họ
là “việt cộng”, cũng như những người cộng sản cực đoan sẵn sàng chụp mũ cho những
người không cùng quan điểm với họ là “phản động”. Thực ra, chính những người cực đoan của cả
hai phía mới là “phản động”, vì họ làm cản trở cơ hội hòa giải và hòa hợp dân tộc
để chung tay đổi mới và phát triển theo hướng dân chủ hóa.
Đối thoại với ai?
Tuy có nhiều kênh đối thoại khác
nhau, nhưng nên bắt đầu bằng ba diễn đàn chính. Thứ nhất là diễn đàn chuyên về
cải cách thể chế (trên cơ sở Báo Cáo VN 2035) với các cựu quan chức cấp cao như
ông Bùi Quang Vinh (nguyên bộ trưởng bộ KH-ĐT), bà Phạm Chi Lan (nguyên TTK
VCCI, thành viên Ban NCTT), ông Vũ Ngọc Hoàng (nguyên phó ban Tuyên giáo TW),
ông Nguyễn Sỹ Dũng (nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội), v.v.
Thứ hai là diễn đàn cải cách mở rộng,
với “Nhóm 72” (gồm các nhân sỹ trí thức) và “Nhóm 61” (gồm các vị lão thành
cách mạng), về những kiến nghị họ đã từng đề xuất (nhưng vẫn chưa được lãnh đạo
hồi âm). Đại diện nhóm này có thể gồm những vị như ông Nguyễn Trung (nguyên thứ
trưởng, trợ lý Thủ tướng, thành viên Ban NCTT), ông Chu Hảo (nguyên thứ trưởng
bộ KH-CN), ông Lê Đăng Doanh (nguyên trợ lý bộ trưởng bộ KH-ĐT, thành viên Ban
NCTT), ông Tương Lai (nguyên viện trưởng Viện Xã hội học, thành viên Ban NCTT),
ông Nguyễn Quang A (nguyên Viện trưởng Viện IDS), ông Trần Đức Nguyên (nguyên
thành viên Ban NCTT), ông Bùi Đức Lại (nguyên chuyên gia cao cấp Văn phòng
Chính phủ), v.v.
Thứ ba là diễn đàn xã hội dân sự,
với đại diện các hội đoàn XHDS độc lập như nhà báo Phạm Chí Dũng (chủ tịch Hội
Nhà báo Độc lập), nhà văn Nguyên Ngọc (chủ tịch Văn đoàn Độc lập), và các đại
diện của giới bất đồng chính kiến (trong nước và ngoài nước).
Đối thoại như thế nào?
Thực ra Việt Nam có khá nhiều cơ
chế và kênh đối thoại. Ngoài Quốc hội, còn có Mặt trận và Ban Dân Vận TW, v.v.
Về nguyên tắc, các đại biểu Quốc hội là đại diện cho dân, có quyền và nghĩa vụ
thay mặt dân chất vấn Chính phủ trong các phiên chất vấn/điều trần. Nếu Quốc hội,
Mặt Trận, Ban Dân Vận, làm tốt chức năng đối thoại, thì chắc ông Thưởng không
phải đặt ra vấn đề đối thoại, như một biện pháp nhằm giải cứu con tàu đang sắp
chìm, nếu không phải là PR để đối phó tình huống nhằm tìm kiếm một cái xuồng cứu
hộ nào đó.
Điều kiện tiên quyết trong đối
thoại là trước hết hai phía phải ôn hòa, thực tâm lắng nghe và tôn trọng lẫn
nhau. Nếu đối thoại với thái độ cực đoan và ngạo mạn, không lắng nghe và tôn trọng
lẫn nhau, thì sớm muộn cũng thất bại. Thứ hai, phải có chính danh (legitimacy),
đối thoại với thái độ xây dựng và nghiêm túc. Thứ ba, phải khiêm tốn để hòa hợp
và hòa giải. Những người cực đoan thường khó hòa hợp do không chịu lắng nghe,
như “đối thoại giữa những người điếc”, hay giữa những người máy “có hệ điều
hành hoàn toàn khác nhau”.
Đã đến lúc chính quyền cần tổ chức
đối thoại và tranh luận công khai về những vấn đề bức xúc của đất nước (như đổi
mới thể chế), không phải chỉ để “hạ nhiệt” mà để đồng thuận quốc gia, với giới
trí thức và các tổ chức xã hội dân sự, trên các diễn đàn được báo chí đưa tin để
dân chúng theo dõi. Tuy vấn đề nào “quá nhạy cảm” thì hai bên có thể trao đổi nội
bộ, nhưng hầu hết các vấn đề nóng bỏng của đất nước cần được tranh luận công
khai.
Gót chân A-sin
Điều đáng mừng là chính quyền đã
ngỏ ý đối thoại với những người khác quan điểm (sau khi “quả bom dân sự đồng
Tâm” đã được tháo ngòi bằng đối thoại). Nhưng điều đáng buồn là tuy chưa biết ý
định đối thoại thực hư ra sao, nhưng một số đại diện cho tiếng nói phản biện đã
tranh cãi như mổ bò và “bất đồng chính kiến với nhau”. Trong khi Ls Cù Huy Hà
Vũ muốn “Đối thoại trực tiếp”, thì Ls Lê Công Định lại muốn “đối thoại gián tiếp”.
Nếu Đảng “nát như tương” và đất
nước “nát như cám” (lời ông Phạm Chí Dũng) nên “không có nổi một cuộc đối thoại
cho ra hồn”, thì phong trào dân chủ cũng nát như cháo, vì chia rẽ. Điều đó lý
giải tại sao chính quyền vẫn coi thường giới trí thức và phong trào dân chủ, tại
sao họ vẫn tiếp tục “đối thoại với dân trong đồn công an”. Tuy “bản lĩnh đối
thoại” của chính quyền không cao, nhưng bản lĩnh đoàn kết của giới trí thức
cũng thấp. Trong khi kiến nghị tâm huyết của Nhóm 72 & Nhóm 61 “không khiến
Đảng mảy may động lòng”, thì tại sao họ lại “động lòng” chấp nhận đối thoại và
nhân nhượng người dân Đồng Tâm?
Theo nhà văn Phạm Thị Hoài, giáo
sư Chu Hảo “lạc quan vô tận”, vì cho rằng “chưa nhất thiết giải thể sự lãnh đạo
của Đảng”. Trong khi “xếp hạng” Gs Chu Hảo là “trí thức phản biện trung thành”
(để phân biệt với “giới bất đồng chính kiến”) nhà văn gọi “những người hùng Việt
kiều ẩn danh trên mạng” là những kẻ “thừa khí phách để chê bai giới trí thức
trong nước” xu phụ quyền lực, trong khi chính họ lại “thiếu một chút can đảm để
chính danh”.
Theo ông Phạm Chí Dũng, “lãnh đạo
còn đang phải dành đến 99% thời gian và tâm trí để lo đối phó triệt hạ lẫn nhau
trong nội bộ, thì lấy đâu ra hơi sức để đối thoại với mấy ông trí thức”. Một số
quan chức ủng hộ đối thoại có thể vì động cơ thực dụng, muốn lợi dụng việc này
“làm cầu nối” để lấy lòng Mỹ và phương Tây, nhằm “thu xếp cho hậu sự”. Trong
khi bà Phạm thị Hoài cho rằng “giải phẫu thẩm mĩ cho một chế độ toàn trị là
giúp nó tồn tại mĩ miều hơn”, thì ông Bùi quang Vơm cho rằng những người chủ
trương cải cách thật sự có thể lợi dụng trò chơi đối thoại này để “lật ngược thế
cờ” của phe bảo thủ, để “biến giả thành thật”.
Bi kịch quốc gia
Bức tranh nhiều gam màu đa dạng của
xã hội dân sự Việt Nam thật quá đa nguyên. Phải chăng đây là “gót chân A-sin” của
phong trào dân chủ? Có lẽ tình trạng
chia rẽ và bất đồng trong xã hội dân sự cũng phản ánh bản chất của xã hội Việt
Nam (là “ba người thua một người”). Nhưng bài học phát triển của các quốc gia
thành công ở Đông Á không dựa trên sự đa nguyên đó. Muốn tự cường và thoát
Trung, dân tộc này phải hòa giải và đồng thuận để phục hưng quốc gia, như một
dân tộc thông minh và trưởng thành. Vì vậy, không chỉ giới cai trị phải thay đổi,
mà giới bị trị cũng phải thay đổi để mạnh lên, vì “dân nào thì chính phủ ấy”.
Một đất nước yếu kém về năng lực
kết nối cộng đồng thường do người ta quá coi trọng “chính sách loại trừ”
(exlusive politics) và quá coi nhẹ “văn hóa dung nạp” (inclusive culture). Để
dung nạp, người ta phải đối thoại và kết nối để đi đến hòa giải dân tộc và đồng
thuận quốc gia. Chiến tranh Việt Nam là một cuộc nội chiến “ủy nhiệm” (proxy) bởi
ngoại bang, đã chia cắt và tàn phá đất nước này một cách thảm khốc. Nhưng 42
năm sau chiến tranh, những người Việt cực đoan và cuồng tín (của cả hai phía)
dường như vẫn chưa tỉnh ngộ.
Phải chăng họ vẫn muốn tiếp tục
cuộc nội chiến trong cộng đồng, với tâm thức và não trạng như “tù binh của quá
khứ”? Và “bóng ma Viêt Nam” đã ám ảnh họ suốt hai thế hệ, đến tận bây giờ vẫn
chưa chấm dứt. Dù thời thế đã thay đổi, nhưng dường như họ vẫn chưa từ bỏ cuộc
chiến ý thức hệ vì “cờ đỏ-cờ vàng”. Thậm chí họ còn tiếp tục cuộc nội chiến mới
ngay trong lòng cộng đồng của mình, dù cùng màu cờ sắc áo, dù ở Hà Nội/Sài Gòn,
hay ở Little Saì Gòn. Họ chống lại và chụp mũ bất kỳ ai không giống họ, hay
không nghe theo họ. Đó là nghịch lý Việt Nam, và là bi kịch quốc gia, như một
“nghiệp chướng” (karma). Nếu không thể đồng thuận quốc gia bằng đối thoại, thì
đất nước có thể trở thành một “Công viên Khủng Long”.
Thay lời kết
Trong những năm qua, không gian
xã hội dân sự đã được mở rộng, với 54 tổ chức XHDS trong đó có 16 hội đoàn độc
lập (tính đến 6/2014). Nhưng các tổ chức này chưa thực sự lớn mạnh vì họ còn
nhiều bất đồng, hay tranh cãi và chia rẽ. Trong khi đó, các doanh nghiệp vẫn
chưa có công đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Hiện nay, đổi mới thể chế (vòng
hai) là yêu cầu cấp bách nhất, để tháo gỡ những ách tắc của hệ thống chính trị
đã lỗi thời, nhằm giải phóng năng lượng sáng tạo, và những động lực của kinh tế
thị trường, để đổi mới và phát triển. Trong quá trình này, đối thoại và tranh
luận nhằm tìm đồng thuận quốc gia và hội nhập quốc tế là một yêu cầu cấp thiết,
để thoát khỏi nguy cơ khủng hoảng kép về kinh tế (nợ công chồng chất, ngân sách
thâm hụt), về chính trị (tranh giành quyền lực quyết liệt), về môi trường (ô
nhiễm nặng nề) và văn hóa xã hội (xuống cấp trầm trọng) trong khi chủ quyền quốc
gia và lãnh thổ (tại Biển Đông) đang bị đe dọa.
Trong bối cảnh đó, chuyến thăm Mỹ
sắp tới của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là một thách đố (gambit) đối với chính
phủ Việt Nam, không chỉ về tầm nhìn và đối sách ngoại giao (đầy thách thức) mà
còn gắn liền với bức tranh đối nội (đầy bất ổn). Dưới thời Donald Trump, đối
thoại Việt-Mỹ về nhân quyền cũng như về thương mại (FTA song phương) hay về an
ninh (Biển Đông), đòi hỏi chính phủ (cũng như dân) phải đổi mới tư duy và có bản
lĩnh, để đối phó được với những tình huống mới (đầy bất định). Lúc này chơi “lá
bài Mỹ”, hay chơi “lá bài Nhật” như một đòn bẩy (hedging) trong quan hệ với Mỹ,
ngày càng khó.
Chưa bao giờ Việt Nam lại đứng
trước các thách thức và lựa chọn khó khăn như hiện nay, trong quan hệ với Mỹ,
Trung Quốc, và Nhật. Quan hệ “rất phức tạp” giữa Washington và Bắc Kinh vào lúc
này là yếu tố khiến lãnh đạo Việt Nam phải gặp Donald Trump “càng sớm càng tốt”.
Theo Muray Hiebert (CSIS), “Việt Nam không nên chờ, mà hãy đến Washington ngay
bây giờ để trở thành một phần trong cuộc đối thoại”. Vấn đề là ông Phúc đối thoại thế nào với ông
Trump và các quan chức Mỹ (để không mang tiếng là “Thủ tướng KLMV”).
NQD. 26/5/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét