Đầu tuần này, công ty thẩm lượng
tín dụng Moody đã hạ thấp mức tín nhiệm của chính quyền Trung Quốc từ A3 xuống
A1. Lần trước, khả năng trả nợ của Bắc Kinh bị nghi ngờ và mất điểm xảy ra đã gần
ba chục năm nay. Bộ Tài Chánh Trung Cộng lập tức phản đối, vì khi điểm tín dụng
của một xí nghiệp hay một quốc gia xuống thấp, họ sẽ phải trả lãi suất cao hơn
khi vay tiền. Các công ty lượng giá điểm tín dụng cao thấp tùy theo khả năng trả
nợ của người đi vay tốt hay không.
Năm 2011 chính phủ Mỹ cũng bị xuống
điểm, từ AAA xuống AA+, khi kinh tế Mỹ bước vào năm thứ ba sau cuộc khủng hoảng.
Thứ Hai vừa qua, Moody nêu lý do hạ thấp điểm của Trung Cộng là vì số tiền vay
nợ trong cả nền kinh tế lên quá cao trong khi sức phát triển kinh tế lại giảm bớt.
Không khác gì một xí nghiệp nợ nần chồng chất mà mức lời có triển vọng đi xuống.
Trung Cộng rất quan tâm đến “điểm
tín dụng” (credit-rating), vì muốn các nhà đầu tư quốc tế tham gia mua trái phiếu
họ sẽ phát hành, với số lượng lên tới $8,000 tỷ. Vì thế, Tháng Tư năm ngoái,
Trung Cộng đã nới rộng thủ tục cho các công ty lượng giá tín dụng như Moody, được
hoạt động trong lục địa kể từ Tháng Bảy năm nay.
Giới đầu tư quốc tế sẽ khó đem tiền
cho vay nếu chỉ căn cứ vào điểm tín dụng co các công ty tài chánh địa phương thẩm
lượng – vì họ thường cho điểm cao hơn. Ngay trong khi Moody hạ thấp điểm tín dụng
của Trung Quốc, một công ty địa phương có uy tín vẫn giữ nguyên điểm tín dụng
cũ, AAA. Công ty Chengxin Credit Management (Thành Tín Tín Dụng Bình Cấp) thành
lập từ năm 1992 có 30% cổ phẩn thuộc Moody nhưng làm ăn độc lập.
Mối lo của các nhà phân tích
Moody không phải chỉ vì số nợ trong nền kinh tế Trung Quốc lên quá cao; nhưng
nguy hiểm hơn nữa là những món nợ khổng lồ được che giấu, không ghi trong sổ
sách. Không những các doanh nghiệp nhà nước chất chứa các món nợ “vô hình” đó;
chính quyền các địa phương càng mang nợ chồng chất.
Khi lên ngôi, Tập Cận Bình nhìn
nhận mối nguy vỡ nợ nên đã ra lệnh ngăn chặn hoạt động “vay ngầm.” Đến Tháng
Ba, 2015, nhiều địa phương tiến đến cảnh vỡ nợ, trung ương phải nương tay; đồng
thời cho phép các địa phương phát hành trái phiếu. Đó hình thức vay nợ phổ
thông ở các nước tư bản, vay trực tiếp những món tiền lớn từ công chúng, không
qua các ngân hàng. Chỉ trong hai năm, số nợ nần của nhà nước đã tăng vọt lên gần
gấp đôi, từ 15% Tổng Sản Lượng Nội Địa (GDP) lên 28%. Số nợ của các tỉnh, năm
2014 còn nhỏ, không đáng kể, đến giữa năm 2016 đã lên tới 1,000 tỷ đồng nguyên,
$140 tỷ, nhưng khả năng trả nợ thì lại giảm.
Chính quyền các tỉnh, huyện, cho
tới xã trước đây vẫn bán đất công hoặc đất trưng dụng của dân cho vào công quỹ
để dùng trong việc trả nợ. Tới nay, số đất công cạn dần, chiếm đất tư khó hơn,
và giá đất lại giảm, đến kỳ trả nợ sẽ lúng túng. Hơn nữa, chính sách của Bắc
Kinh có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Nếu chính quyền trung ương bắt các tỉnh giảm
bớt tín dụng, họ sẽ không biết làm cách nào vay được nợ mới lấy tiền trả các
món nợ cũ!
Tất cả khiến cho giới đầu tư thế
giới lo ngại; và đó là lý do khiến Moody hạ thấp điểm tín dụng của cả nước. Dù
sao, điểm A1 của Bắc Kinh cũng còn cao, ngang với điểm tín dụng của Nhật Bản hiện
nay. Nhưng kinh tế Nhật đã trì trệ trong hai chục năm qua, trong thời gian kinh
tế Trung Quốc vẫn được coi là lên nhanh nhất thế giới. Năm 2015, sản lượng tính
theo đầu người của Nhật Bản là $34,524 một năm, còn người dân Trung Quốc chỉ có
$8,069, theo Ngân Hàng Thế Giới. Khi điểm tín dụng của Bắc Kinh xuống, đó là dấu
hiệu cho thấy kinh tế trong lục địa sắp trải qua nhiều khó khăn.
Từ nhiều năm qua, giới nghiên cứu
đã thấy tình trạng kinh tế của Trung Quốc bây giờ rất giống như tình trạng Nhật
Bản trong thập niên 1990.
Vào đầu thập niên 1990, hơn 40
năm sau khi bại trận, Nhật Bản đang phồn thịnh đến mức tưởng như sắp vượt qua
kinh tế Mỹ, dù dân số thấp hơn. Kinh tế Nhật Bản đã phát triển theo một con đường
mà sau này Trung Quốc cũng đi theo: Đặt nặng vào đầu tư, nhẹ về tiêu thụ. Trong
một nền kinh tế tư bản như ở Mỹ, hai phần ba số phát triển hàng năm là do người
dân tiêu thụ. Tại Nhật thời 1990 và tại nước Tàu bây giờ, kinh tế phát triển được
một nửa là do đem tiền đổ vào đầu tư.
Một triệu chứng tại Trung Quốc
bây giờ và tại Nhật Bản này xưa, là tình trạng giá nhà đất tăng vọt, trong khi
lợi tức của người dân tăng chậm hơn. Thị trường địa ốc bị lũng đoạn bởi các người
đầu cơ, có lúc giá nhà ở Tokyo tăng 70% một năm. Đến năm 1990, giá nhà đất ở Nhật
bắt đầu xuống, kéo dài suốt 15 năm.
Lý do khiến quả bóng địa ốc Nhật
tăng phồng là hệ thống tài chánh lỏng lẻo, việc vay nợ dễ dàng, giống như ở lục
địa Trung Hoa ngày nay. Trước cuộc khủng hoảng năm 2007, tình trạng cho vay ở
nước Mỹ cũng vậy. Khi các ngân hàng cho vay tiền để mua nhà phá sản, chính phủ
đã cứu. Nhưng tiền không cứu được lòng tin. Cho nên kinh tế Mỹ bắt đầu phục hồi
từ năm 2009 nhưng phát triển rất chậm. Còn ở nước Nhật, cơn suy thoái thập niên
1990 vẫn còn di lụy tới bây giờ. Hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc được thả lỏng
và kém minh bạch hơn cả Nhật Bản và Mỹ, với những món nợ ngầm không chính thức.
Từ đầu năm 2017, giá nhà cửa ở Bắc Kinh vẫn lên giá 16%. Lòng tin của dân Trung
Hoa sẽ khó vực dậy nếu quả bong bóng vỡ.
Giữa Nhật Bản trước đây và Trung
Quốc bây giờ còn giống nhau một điểm khác: Dân số bắt đầu khuynh hướng sụt giảm.
Trong 15 năm nữa, dân số nước Tàu sẽ lên cao nhất, sau đó bắt đầu giảm; tới thập
niên 2030 thì sẽ giảm rất nhanh. Chính sách “một con” của Mao Trạch Đông là một
nguyên nhân. Những cặp sinh con thứ hai bị phạt nặng, người dân thường bị cắt
tem phiếu, còn nhà đạo diễn Trương Nghệ Mưu (phim Kinh Kha) bị phạt 7.5 triệu đồng
nguyên (bằng $1.5 triệu lúc đó). Khi đổi mới theo kinh tế tư bản, nhiều gia
đình phân ly vì một người đi tìm việc ở thành phố; năm 2015 số trẻ em mới sinh
đã giảm 320,000 so với năm trước. Trung Quốc hiện có 221 triệu người trên 60 tuổi,
tuổi về hưu, chiếm 16% dân số, thêm 2% so với năm năm trước đây. Lực lượng lao
động đang giảm sút, tỉ lệ gia tăng 1.5% trong 10 năm đầu thế kỷ 21 sẽ tụt xuống
thành số âm, bớt 0.1% mỗi năm trong thập niên 2010-2020.
Nhưng khi so sánh kinh tế Nhật hồi
1900 với Trung Quốc bây giờ, chúng ta thấy Nhật Bản hồi xưa có lợi thế hơn nhiều.
Trước khi xuống dốc, hàng hóa Nhật đã tràn ngập thế giới với những chiếc xe
Toyota, Honda hay hàng tiêu thụ mang nhãn hiệu Sony, Panasonic và Nikon. Hiện
nay Trung Quốc chưa có một nhãn hiệu nào có uy tín như thế.
Khi lâm vào cảnh khủng hoảng thời
1990, đời sống của người dân đã khá giả không kém gì các nước Âu, Mỹ; trong khi
người dân Trung Quốc trung bình hiện nay vẫn còn sống thiếu tiện nghi, lợi tức
bình quân chưa bằng một phần tư dân Nhật; phải mất 20 năm nữa mới theo kịp Nam
Hàn và 40 năm để bằng dân Nhật Bản.
Khi kinh tế Nhật giảm tốc,nước Nhật
đã sống trong chế độ tự do dân chủ được 40 năm, người dân tin tưởng chính quyền,
người cai trị và người bị trị tin lẫn nhau, cho nên đồng tâm chịu cảnh thiếu thốn
bất ngờ xảy ra. Dân Trung Quốc hiện đang sôi nổi tranh đấu đòi quyền sống làm
người, chống cường hào ác bá cướp đất cướp ruộng, mỗi năm hàng trăm ngàn cuộc
biểu tình.
Xã hội Nhật ổn định hơn. Lương bổng
người lao động Nhật không thua quá sa lương giới quản đốc đến mức khiến người
ta ghen tị. Còn Trung Quốc, dù người cầm quyền vẫn tự xưng là theo chủ nghĩa xã
hội, hiện đang nhiều tỷ phú đô la nhất thế giới, trong khi 200 triệu công nhân
từ quê lên tỉnh vẫn sống trong cảnh bấp bênh.
Công ty thẩm lượng tín dụng Moody
đã đánh một tiếng chuông báo động cho kinh tế Trung Quốc, nhưng chính quyền
Trung Cộng không muốn dân nghe được. Cho nên họ chỉ trích rằng công ty này
“dùng phương pháp sai lầm” hoặc “không hiểu rõ luật lệ” của nước Tàu. Nhưng sự
thật vẫn là sự thật. Hiện nay ông Tập Cận Bình đang cố giữ hình ảnh kinh tế khả
quan, ít nhất tới cuối năm khi đảng Cộng Sản họp đại hội. Nhưng sau đó, nếu
không liệu sớm cải tổ cơ cấu thì kinh tế sẽ còn xuống dốc nữa, đến khi lâm cơn
khủng hoảng như Nhật Bản đã trải qua gần 20 năm trước đây. Lúc đó nước Nhật có
nhiều điều kiện tốt để đứng vững, còn nước Tàu thì chúng ta không biết!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét