Tao vui vì luôn nhìn
thấy Đảng loạng choạng lùi, trước thằng ... Thời Đại. Trần Đĩnh
Ngôi chùa duy nhất mà tôi biết rõ từng viên gạch (và
từng gốc cây/ bụi cỏ) có tên là Linh Sơn Tự, trên Cao Nguyên Lâm Viên.
Khi còn bé thơ, còn “lon xon như con với mẹ,” tôi vẫn thường theo bà đi
lễ – đều đặn – vào những ngày rằm và mùng một.
Đây là đất Phật nên bà yên tâm để tôi tha thẩn khắp
nơi, suốt buổi, trong khi bận rộn với việc công quả. Tôi cũng bận
luôn. Bận tìm rau cho rùa ăn, bận bắt chuồn chuồn/bươm bướm/bọ cánh
vàng, bận trèo cây, bận hái hoa trà, bận ngồi nhong nhong trên đôi rồng
đá nằm chầu – song song – bên những bậc thang dẫn vào chính điện.
Cho đến khi biết đọc, và có thể đi giang hồ (vặt)
một mình thì tôi thôi không theo mẹ lên chùa nữa. Boring thấy bà luôn!
Với thời gian, và qua những bộ chuyện kiếm hiệp của Kim Dung (cùng
trí tưởng tượng hơi quá phong phú của tôi) thì Linh Sơn Tự mỗi lúc
càng thêm nhỏ lại, quá nhỏ nếu so với ... Thiếu Lâm Tự chót vót trên
đỉnh Tung Sơn, ở bên Tầu!
Xa Linh Sơn Tự, tôi cũng xa luôn qúi vị chư tăng mà
mình chưa có cơ hội để gần trong những tháng ngày thơ ấu. Đã thế,
sách sử còn khiến cho tôi dành rất ít tình cảm cho qúi vị quan
chức, tăng lữ và qúi tộc. Những giới người này thường (rất) dễ bị
hư hỏng trong mọi thời đại, và khắp các nơi, chứ chả riêng chi ở
Việt Nam.
Tôi không nhớ là mình đã từng xưng “con” với một vị
tu sĩ nào ráo trọi. Tôi chỉ có thể là con Phật, con Chúa, và là con
của bố mẹ mình thôi.
Rồi cũng như bao nhiêu người khác, với thời gian
(dường như) mỗi lúc tôi lại ...
"nhích" lại gần với tôn giáo hơn – một chút! Khi Lê Trí Tuệ chưa bị bắt đi biệt
tích, có lần, tôi hỏi em:
- Sao địa chỉ email của Tuệ lại dùng bốn chữ Thanh
Minh Thiền Viện (thanhminhthienvien) viết liền vậy?
- Dạ tại đây này là nơi đang giam lỏng Hoà Thượng
Quảng Độ, và em thì rất qúi mến ngài anh ạ.
Mới đây, tôi cũng thấy ảnh của một người bạn trẻ
khác – Nguyễn Vũ Bình – chụp chung
với H.T. Quảng Độ. Nhìn một vị cao tăng, sắp bước vào tuổi cửu
tuần, hiền hoà và an nhiên đứng cạnh mấy bạn thanh niên (không dưng)
khiến tôi rưng rưng cảm động. Bây giờ, nếu có cơ hội được diện kiến
ông – chắc chắn – tôi cũng sẽ cung kính chắp tay đảnh lễ và nhỏ nhẹ
xưng ... “con” như tất cả mọi người
thôi!
Cách đây chưa lâu, tôi cũng có cái tâm cảm tôn kính
tương tự, khi tìm hiểu về Trại Cổng Trời và được biết thêm (đôi
điều) về cuộc đời của một vị tu sĩ khác – cha Gioan Lasan Nguyễn Văn
Vinh – qua lời của bạn đồng nghiệp Mặc Lâm và nhà thơ Tuân Nguyễn:
Mặc Lâm:
Tiếng chuông Nhà Thờ Lớn Hà Nội giục giã vang lên chỉ một
ngày trước lễ Giáng Sinh năm 1959. Không phải báo hiệu sự ra đời của Chúa Giê
Su, mà tiếng chuông kêu cứu với giáo dân vì Nhà Thờ Lớn đang bị một nhóm người
đến phá rối...
Câu chuyện vỡ lở ra sau đó cho thấy nhóm người đến phá nhà
thờ do chủ trương quá khích của một nhóm người và kết quả là linh mục Trịnh Văn
Căn, linh mục Nguyễn Văn Vinh cùng một số giáo dân bị quy tội phá rối trị an.
Linh mục Căn chịu 12 tháng tù treo, linh mục Nguyễn Văn Vinh chịu 18 tháng tù
giam vì tội “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống,
xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân”
Có thể nói cha chính Vinh là nạn nhân đầu tiên trong chính
sách xóa sổ thầm lặng đạo Công giáo mà chính quyền Hà Nội hướng tới. LM Nguyễn
Văn Vinh do quá cương quyết và không chịu khuất phục đã âm thầm chịu chết sau
đó, trong trại giam Cổng Trời.
Ngài sống, và chết, ra sao, sau mười hai năm (chứ
không phải 18 tháng) bị giam ở trại Cổng Trời ?
Tuân Nguyễn kể lại như sau:
Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì,
mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội
chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của
kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị.
Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác
anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi
ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh
ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi...
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và
cũng không ai muốn tranh. Ðó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị
trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm.
Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng
đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng,
tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai
bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
…
Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng.
Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc
chốc lại lên cơn co giật…Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh
ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười.
Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm
mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi
đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm
mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như
viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào
lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than (Phùng Quán,
“Người Bạn Lính Cùng Tiểu Đội.” Ba Phút Sự Thực. NXB Văn Nghệ: Sài Gòn, 2007)
Cha Nguyễn Văn Vinh qua đời vào năm 1971. Chữ NHẪN mà
ngài viết bằng than (vào lòng bàn tay của một nhà thơ) hồi gần nửa
thế kỷ trước, đến nay mới được chứng nghiệm qua "sự cố môi
trường Formosa" cùng cách hành sử của nhị vị linh mục Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục.
Hai ông hiện cũng đang bị "đấu tố" về những
tội danh tương tự như cha Vinh năm mươi năm trước (vô cớ tập hợp quần chúng
trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ
trong nhân dân ...) nhưng thời thế và
tình thế thì hoàn toàn đã khác. Chữ NHẪN đã chín với thời gian.
Bây giờ nhà nước không còn có thể ngang nhiên bước
vào nhà thờ, còng tay tu sĩ, và đẩy vào tù cho cho đến chết (luôn)
như trước nữa. Dù đã vận dụng mọi thủ thuật và thủ đoạn (bẩn
thỉu) trong gần cả năm qua nhưng chuyện tìm cách bắt giữ cha Nam và
cha Thục, xem ra, mỗi lúc một thêm vô vọng.
Với hai trăm ngàn (200,000.00) chữ ký của các nạn nhân
trực tiếp, và gián tiếp của thảm họa Formosa đã trao cho Liên Hiệp Châu Âu
(vào hôm 16 tháng 5 năm vừa qua) thì việc bắt giữ hay truy nã những
nhà hoạt động xã hội - Nguyễn Văn Hoá, Hoàng Đức Bình và Bạch Hồng
Quyền - chỉ làm cho sự việc thêm lố bịch và bế tắc thêm thôi.
Thằng Thời Đại đã buộc Đảng phải "loạng choạng
lùi" rồi. Chỉ e là lùi không
kịp thôi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét