Nguồn: Nicholas Lyall, “Will the South China Sea Become the
New Crimea?“, The National Interest, 07/05/2017.
Tập Cận Bình đã tránh được thành công hành động quá đà trên
biển – nhưng điều này có thể sẽ thay đổi.
Tình bạn đang nảy nở giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình
và Tổng thống Nga Vladimir Putin trong thời gian gần đây đã phản ánh những nét
tương đồng trong phong cách lãnh đạo cá nhân của họ. Cả hai quốc gia đều được
xác định bằng việc chú trọng vào người lãnh đạo cá nhân, ngược lại với thể chế,
do đó tiêu biểu cho mô hình “thuyết nhân cách” trong đó các nhà lãnh đạo tự mô
tả mình là những nhà cầm quyền mạnh mẽ và độc nhất mà số phận của toàn dân tộc
phụ thuộc vào.
Mô hình lãnh đạo này, vốn thường thúc đẩy các nhà lãnh đạo theo thuyết nhân cách tìm kiếm uy tín quốc gia cho đất nước của mình nhằm duy trì tiếng tăm trong nước, và cũng có thể dẫn đến sự quá đà về chính sách đối ngoại. Trong khi những nỗ lực nhằm đạt được uy tín quốc gia có thể dẫn đến việc các chế độ theo thuyết nhân cách giành được quyền lực ở bên ngoài, chúng cũng thường cũng dẫn đến việc hình thành các liên minh giữa các nước bị ảnh hưởng để chống lại chế độ theo chủ nghĩa phiêu lưu. Putin hiện đang gánh chịu những tác động của cái bẫy hành động quá đà này sau khi Nga sáp nhập Crimea.
Mô hình lãnh đạo này, vốn thường thúc đẩy các nhà lãnh đạo theo thuyết nhân cách tìm kiếm uy tín quốc gia cho đất nước của mình nhằm duy trì tiếng tăm trong nước, và cũng có thể dẫn đến sự quá đà về chính sách đối ngoại. Trong khi những nỗ lực nhằm đạt được uy tín quốc gia có thể dẫn đến việc các chế độ theo thuyết nhân cách giành được quyền lực ở bên ngoài, chúng cũng thường cũng dẫn đến việc hình thành các liên minh giữa các nước bị ảnh hưởng để chống lại chế độ theo chủ nghĩa phiêu lưu. Putin hiện đang gánh chịu những tác động của cái bẫy hành động quá đà này sau khi Nga sáp nhập Crimea.
Crimea: Một chiến thắng phải trả giá đắt
Trong khi Nga đang ngày càng lo lắng về những căng thẳng gia
tăng với NATO ở vùng Baltics, thì chiến lược lớn Á-Âu của Putin vẫn đang đình
trệ, vì các nước Trung Á đã trở nên nghi ngờ về chủ nghĩa đế quốc mới có thể xuất
hiện của Nga sau khi Nga sáp nhập Crimea. Dự án chủ đạo của chiến lược này,
Liên minh kinh tế Á-Âu (EEU), hiện đang suy tàn. Điều này là vì các rắc rối
kinh tế của Nga – một phần là do các biện pháp trừng phạt mà phương Tây áp đặt
để đáp trả hành động của Nga ở Ukraine – đã xâm nhập vào các nền kinh tế Trung
Á, vốn phụ thuộc vào Nga trong phần lớn thương mại hai chiều của họ. Tác động của
các biện pháp trừng phạt, bị làm trầm trọng thêm bởi sự sụt giảm giá dầu trên
toàn cầu, được thể hiện qua việc kim ngạch thương mại sụt giảm giữa Kazakhstan
và Nga, từ 28,5 tỷ USD năm 2013 xuống 15,5 tỷ USD năm 2015 – giảm 45%. Xu hướng
của Moskva ưu tiên chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa phiêu lưu của nước này
thay vì cân nhắc đến nền kinh tế khu vực đang khiến các nước thành viên EEU
ngày càng thấp thỏm, một vài trong số đó đang dần dần vỡ mộng về dự án này.
Sự vỡ mộng của các nước thành viên EEU và các nước Trung Á
khác về chủ nghĩa phiêu lưu của Putin, và sự nghi ngờ của họ đối với chủ nghĩa
đế quốc mới của Nga, có thể làm suy yếu nghiêm trọng chiến lược lớn của Moskva.
Trước hết, nó có thể khiến các quốc gia này ngày càng sẵn sàng tìm kiếm sự hợp
tác lớn hơn với EU và Trung Quốc, điều sẽ không có lợi cho Nga. Một tác động
khác có thể xảy ra là việc các nước thành viên EEU hợp tác để chống lại sự lấn
át của Moskva trong liên minh. Thêm vào đó, việc Moskva thiếu vốn để thúc đẩy hội
nhập kinh tế khu vực có thể khiến các quốc gia Trung Á tăng cường tập trung vào
các cải cách trong nước nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của chính họ. Việc
giảm phụ thuộc kinh tế vào Nga do kết quả của điều đó – hiện trạng của nhiều
trong số những quốc gia này – có thể dẫn đến quyền tự chủ gia tăng so với Nga.
Xét tác động tiêu cực của hành động của Putin ở Crimea tới
chiến lược lớn hơn của ông, thì khả năng Tập Cận Bình phải chịu số mệnh tương tự
ở Biển Đông sẽ là gì? Sự phát triển chiến lược biển của Trung Quốc kể từ cuối
năm 2012 đang làm sáng tỏ điều này.
Tham vọng “cường quốc biển” của Tập Cận Bình đối với Trung
Quốc
Việc Chủ tịch Tập Cận Bình ủng hộ nhu cầu Trung Quốc trở
thành một cường quốc biển, tại một buổi học tập của Bộ Chính trị Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc vào tháng 7/2013, là một bước ngoặt quan trọng. Bằng việc dựa
trên bài phát biểu của cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tại Đại hội Đảng lần thứ 18 vào
tháng 11/2012 – nơi chủ đề cường quốc biển lần đầu tiên được đưa ra – việc củng
cố tham vọng này của Tập Cận Bình đã đánh dấu lần đầu tiên kể từ giai đoạn giữa
của thiên niên kỷ trước khi Trung Quốc thể hiện nguyện vọng chân thành là trở
thành một cường quốc biển vượt trội. Nó cũng báo trước một chính sách đối ngoại
tham vọng và quyết đoán mà vị lãnh đạo mới đắc cử khi đó đã lên kế hoạch thực
hiện.
Tại Hội nghị Công tác ngoại giao xung quanh của Đảng Cộng sản
Trung Quốc vào tháng 10/2013, hội nghị đầu tiên theo kiểu này, Chủ tịch Tập Cận
Bình đã vạch ra một nghị trình được xây dựng dựa trên việc Trung Quốc thúc giục
các bên tranh chấp khu vực chấp nhận các tuyên bố chủ quyền của mình, cũng như
ra điều kiện để khu vực chấp nhận “các lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc. Việc Tập
Cận Bình phát triển nghị trình chiến lược này trong năm 2013 đã minh họa cho một
sự xem xét lại quan trọng các mô hình chính sách đối ngoại trước đây của Trung
Quốc: mô hình của Đặng Tiểu Bình là “giấu mình chờ thời”, trong khi Hồ Cẩm Đào
nổi tiếng với niềm tin mạnh mẽ rằng một môi trường láng giềng hòa bình và ổn định
có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Trung Quốc.
Sự quyết đoán ngày càng tăng của Chủ tịch Tập Cận Bình được
thiết kế để hợp thức hóa “mô hình quan hệ nước lớn kiểu mới” của ông với Mỹ, nhờ
đó Trung Quốc sẽ nhận được một mức độ tôn trọng và hợp tác mới từ đối phương,
phản ánh sự vươn lên của Trung Quốc tới vị trí siêu cường toàn cầu. Cụm từ này
là trọng tâm trong việc Tập Cận Bình củng cố hình ảnh của mình như một nhà lãnh
đạo có ý chí mạnh mẽ, và đã giúp ông có được uy tín đáng kể trong nước.
Biến động ban đầu trong việc thúc đẩy “cường quốc biển”
Những phản ứng ban đầu của một số học giả người Trung Quốc đối
với mô hình chính sách đối ngoại mới của Tập Cận Bình là cảnh giác. Wang Jisi
khẳng định rằng Trung Quốc chỉ cần tập trung vào “cuộc trường chinh về phía
Tây” của mình tới khu vực Á-Âu và từ bỏ lập trường mạnh mẽ ở Tây Thái Bình
Dương, vì điều này sẽ chỉ dẫn đến mâu thuẫn dai dẳng và mang tính hủy hoại với
Mỹ và các đồng minh của nước này. Sự thận trọng của Wang dường như là một lời
tiên đoán. Các sự kiện như những gì đã xảy ra ở quần đảo Hoàng Sa vào tháng
5/2014 – nơi Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đã lắp đặt một giàn
khoan dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam – dường như đã đẩy các nước
Đông Nam Á ngày càng xích lại gần nhau hơn trong việc chống lại chủ nghĩa phiêu
lưu của Trung Quốc. Khẳng định của chủ tịch tập đoàn CNOOC rằng tập đoàn sẽ phấn
đấu đóng một vai trò chủ chốt trong việc đạt được tham vọng của Tập Cận Bình về
việc Trung Quốc giành được địa vị cường quốc biển bằng cách sử dụng các giàn
khoan dầu như là “lãnh thổ quốc gia di động” và “vũ khí chiến lược” là một dấu
hiệu cho thấy lập trường của Trung Quốc trên biển đang có nhiều biến động.
Sự thúc đẩy không ngừng cho ưu thế vượt trội trên biển đã được
đưa vào Sách Trắng Quốc phòng năm 2015 của Trung Quốc, trong đó tuyên bố rằng sự
chú trọng truyền thống của Trung Quốc vào lục quân thay vì hải quân sẽ được đảo
ngược, và nhiệm vụ của Hải quân Quân Giải phóng nhân dân (PLAN) sẽ được mở rộng
từ việc bảo vệ lãnh thổ cho đến bao gồm các hoạt động biển khơi. Các cuộc tập
trận nhằm tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu của PLAN, như là cuộc tập trận
hải quân chung Haishang Lianhe với Nga vào tháng 5/2014, chỉ làm trầm trọng
thêm những lo ngại đang gia tăng của các nước láng giềng trên biển của Trung Quốc.
Sự phản đối chung của các bên tham gia trong khu vực đối với
chính sách Biển Đông của Tập Cận Bình đã dần dần gia tăng trong những năm 2014
và 2015, lên đến đỉnh điểm trong phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2016, nhưng
sau đó đã tan đi nhanh chóng. Philippines và Mỹ, vốn sắp sửa tổ chức một liên
minh quốc tế yêu cầu Trung Quốc phải tuân thủ phán quyết tháng 7/2016, đã thất
bại ở rào cản uối cùng khi Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte thay vào đó
đã xoay sang nối lại quan hệ hữu nghị đơn phương với Bắc Kinh.
Sự tham gia của Philippines là quan trọng đối với số phận của
bất kỳ liên minh nào sẽ đối trọng thành công với Trung Quốc, bởi khả năng Việt
Nam – một bên tham gia khu vực lớn khác trong tranh chấp này – can dự một hợp
tác quân sự mở rộng với Mỹ là không thể. Trong khi Mỹ đã hủy bỏ các lệnh cấm xuất
khẩu vũ khí của mình sang Việt Nam vào tháng 10/2014, những vết sẹo tâm lý còn
sót lại của cuộc Chiến tranh Việt Nam vẫn còn dai dẳng một thời gian. Hơn nữa,
khác với Philippines, Việt Nam vốn ít có xu hướng tham gia các mối quan hệ liên
minh mạnh mẽ và sau đó sử dụng chúng như một nguồn sức mạnh tập thể.
Tập Cận Bình tránh né thành công việc hành động quá đà
Một thành tựu chiến lược lớn của Chủ tịch Tập Cận Bình chính
là khả năng học cách đẩy các ranh giới đến mức giới hạn mà không mạo hiểm vượt
qua nó. Cách giải quyết của Trung Quốc trong vụ việc bãi cạn Nam Luconia với
Malaysia chính là một ví dụ như vậy. Tháng 9/2013, một tàu hải giám Trung Quốc
đã thả neo ở khu vực bãi cạn mà Malaysia tuyên bố chủ quyền, mở ra các cuộc điều
trần tại Quốc hội Malaysia và những phàn nàn lan rộng từ các quan chức chính phủ.
Lực lượng Hải giám Trung Quốc cuối cùng đã rút con tàu này vào tháng 11/2015,
chỉ ngay trước khi Malaysia chủ trì Hội nghị thượng đỉnh ASEAN và Hội nghị cấp
cao Đông Á. Cách lựa chọn thời điểm khéo léo này đã ngăn vấn đề trở thành điểm
trọng tâm của sự đàm luận công khai trong các hội nghị thượng đỉnh nổi bật, mà
đã có thể mang lại một động lực quan trọng để chống lại Trung Quốc. Thành tích
nổi bật của Trung Quốc là việc các tàu hải giám đã quay trở lại các bãi cạn này
gần như ngay sau các hội nghị thượng đỉnh, nhưng khi vấn đề này phần lớn đã biến
mất khỏi sự đàm luận công khai của Malaysia, nó đã không còn khả năng gây ra sự
phản kháng chung.
Thành tích chiến lược khác của Tập Cận Bình là khả năng theo
đuổi ngoại giao hai lộ trình. Trung Quốc đã tăng cường mạnh mẽ quan hệ kinh tế
với Philippines trong những tháng gần đây, đảm bảo rằng các tranh chấp trên biển
không được phép làm tổn hại nghiêm trọng đến quan hệ ngoại giao toàn diện. Đề
xuất về một gói đầu tư trị giá 10 tỷ USD vào tháng 3/2017 của Chủ tịch Tập Cận
Bình đã gây ra một phản ứng “vỡ òa” từ Tổng thống Duterte, kết quả là ông đã
tuyên bố rằng ông tin Trung Quốc đã công nhận một cách thỏa đáng các tuyên bố
lãnh thổ của Philippines ở Benham Rise, một trong những điểm nóng lớn trước đây
với Trung Quốc. Khả năng cải thiện quan hệ song phương này với một nước mà
Trung Quốc đang có tranh chấp lãnh thổ không phải là chưa từng có: Quan hệ của
Trung Quốc với Ấn Độ đã được xác định bằng quan hệ song phương đơm hoa kết trái
trong 10-15 năm qua bất chấp tranh chấp biên giới năm 1962 đến nay vẫn còn âm ỉ.
Khả năng Tập Cận Bình áp dụng chiến lược ngoại giao hai lộ trình này với các nước
khác liên quan đến tranh chấp Biển Đông có thể xác định một cách rõ ràng thành
công hay thất bại của ông trong khu vực này.
Cho đến nay, Chủ tịch Tập Cận Bình dường như đã đạt được các
mục tiêu của mình trong khi tránh né hành động quá đà về mặt chiến lược như
Putin ở Crimea. Trên thực tế, sự lãnh đạo theo thuyết nhân cách của Tập Cận
Bình trong một chừng mực nào đó đã có hiệu quả như ý muốn của ông ở Biển Đông,
với ví dụ điển hình là mối quan hệ gần gũi của ông với Duterte. Trung Quốc đang
tiếp tục củng cố các thành quả của mình, khi các dự án cơ sở hạ tầng hiện nay của
nước này đã làm gia tăng đáng kể sự hiện diện của tàu Trung Quốc ở các khu vực
phía Nam của “đường 9 đoạn”. Như vậy, Trung Quốc đang ngày càng tiến gần đến việc
thiết lập quyền kiểm soát thực tế đối với Biển Đông khi nước này ngày càng có
khả năng ngăn các nước Đông Nam Á sử dụng các vùng biển này. Trong khi Mỹ sẽ tiếp
tục tiến hành các hoạt động tự do hàng hải (FONOP), tình trạng trì trệ hiện nay
giữa các mạng lưới liên minh của Mỹ ở Đông Nam Á đồng nghĩa với việc Chủ tịch Tập
Cận Bình sẽ vẫn có khả năng kiểm soát hiện trạng.
Nó có thể vẫn sai lầm như thế nào?
Trong bối cảnh này, điều gì có thể xảy ra mà sẽ ngăn chặn sự
thống trị ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực? Trong khi các nỗ lực của
Chủ tịch Tập Cận Bình tiếp tục xây dựng quan hệ gần gũi với Duterte hiện đang
có lợi cho Trung Quốc, có khả năng điều này sẽ phản tác dụng. Công chúng
Philippines không chia sẻ quan điểm thân mật của Duterte đối với Trung Quốc và
Chủ tịch Tập Cận Bình. Các chuyên gia về pháp luật của Philippines đã cảnh báo
Duterte rằng ông phải đối mặt với những nguy cơ bị kết tội nếu ông không có một
lập trường cứng rắn hơn đối với Trung Quốc (trên thực tế một nhà lập pháp phe đối
lập đã đệ đơn yêu cầu kết tội) và các nhân vật chính trị hàng đầu đã cảnh báo
Duterte phải đảo ngược giọng điệu khúm núm của ông về sự xâm phạm của Trung Quốc.
Bất chấp khuynh hướng phớt lờ chỉ trích của mình, Duterte có lẽ buộc phải chịu
thua trước áp lực ngày càng tăng của công chúng nếu Trung Quốc không dịu bớt
thái độ của nước này. Tập Cận Bình sẽ phải đưa ra một quyết định quan trọng về
vấn đề này. Lệnh cấm đánh bắt cá theo mùa mới của Trung Quốc bên trong “đường 9
đoạn” có thể là ngòi nổ khiến Philippines rút khỏi mối quan hệ hiện nay với Bắc
Kinh. Sau đó, nếu Chính quyền Trump nhận ra, Mỹ sẽ có một cơ hội để khôi phục
quan hệ đối tác với Manila. Điều này có thể mang lại một nền tảng để Mỹ sau đó
có thể xây dựng một chiến lược đối trọng thành công với Trung Quốc ở Biển Đông.
Hiện tại, Chủ tịch Tập Cận Bình đang có ưu thế ở Biển Đông.
Định hướng tương lai của cuộc tranh chấp lãnh thổ này phần lớn phụ thuộc vào việc
liệu Tập Cận Bình có duy trì theo đuổi thành công chính sách ngoại giao hai lộ
trình cũng như khả năng của ông tránh vượt qua những “vạch đỏ” chính. Chẳng hạn
như việc bắt đầu các dự án xây dựng trên bãi cạn Scarborough có thể là chất xúc
tác dẫn đến hình thành một liên minh quốc tế có thể ngăn chặn Trung Quốc.
Nicholas Lyall là nghiên cứu viên tại trường Đại học Quốc
gia Úc. Lĩnh vực chính mà ông quan tâm là về Nga, Trung Quốc, đặc biệt là về an
ninh mạng, an ninh biển liên quan đến Nga và Trung Quốc. Ấn phẩm gần đây của
ông đều viết về chiến tranh phức hợp của Nga, chủ yếu liên quan đến những căng
thẳng hiện tại với NATO.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét