Thứ Ba, 3 tháng 10, 2017

Về chủ nghĩa Mác – Lênin

TT Blog: Bài đọc để tham khảo


 ***


  
Muốn tiến hành cải cách chính trị, đảng phải chủ động loại bỏ “chủ nghĩa Mác – Lênin” và ý thức hệ đi kèm. Bởi các lẽ:
a.      Đảng phải từ bỏ ý thức hệ lỗi thời để thay đổi chính mình thành đảng yêu nước của dân tộc và dân chủ.
b.     Giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi đảng phải có một thế giới quan mới xác lập được con đường phát triển theo các giá trị của dân tộc và dân chủ, giành được vị thế quốc gia mới trong thế giới hôm nay.
c.      Chứng minh trước nhân dân và tranh thủ được lòng tin của nhân dân là đảng đã trở thành một đảng mới của dân tộc và dân chủ mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong thế giới hôm nay đòi hỏi. 

Nên có những công trình nghiên cứu khoa học và nghiêm túc giải quyết thấu đáo, thuyết phục nhiệm vụ khó khăn này để giải phóng tư duy theo tinh thần loại bỏ những cái sai và lỗi thời, gìn giữ những giá trị đúng đắn, hướng về những giá trị mới mà thực tế khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi. 
Trong khuôn khổ tâm sự và trao đổi, chỉ xin nêu ra một số suy nghĩ ban đầu dưới đây. 
Trước hết xin nói ngay: Cả Mác và Lênin đều không sáng lập ra chủ nghĩa này – nó không tồn tại.  
Chính bản thân Mác – và cả Ăng-ghen – đều cho tác phẩm trí tuệ của mình là lý luận mang tính giải thích và thúc đẩy sự phát triển của cuộc sống. Mác và Ăngghen suốt cuộc đời mình đã nhiều lần tiếp tục điều chỉnh những chỗ sai, có nhiều sửa đổi quan trọng, bám vào thực tiễn và sự vận động của lịch sử để tiếp tục phát triển lý luận của mình. Tới nay đã có thể lọc ra khoảng 9 – 10 lần  Mác và Ăngghen đã có những thay đổi như thế. Cả Mác và Ăngghen đều coi lý luận của mình là mở, đòi hỏi vận dụng sáng tạo bám sát cuộc sống chứ không giáo điều, không bao giờ coi nó là học thuyết hay chủ nghĩa mang tính khuôn sáo, áp đặt.  
Còn Lênin cũng chưa từng đưa lý luận Mác lên thành một thứ chủ nghĩa, cũng chưa hình thành được chủ nghĩa riêng của Lênin, vì bản thân Lênin còn đang viết NEP (the New Economy Policy – Chính sách kinh tế mới, 1924) dở dang thì qua đời. Trước khi soạn thảo NEP, điều bổ xung của Lênin vào học thuyết Mác là quan điểm “chuyên chính vô sản”. Song trong quá trình viết NEP chính Lênin không nhắc tới hoặc đã thay đổi quan điểm này. Thực tế cũng đã chứng minh CCVS là sai lầm. 
CNML như được nói tới, được hiểu và dạy, được thực hành trong ĐCSVN và ở nước ta cho đến hôm nay được lấy ra từ các phiên bản “Liên Xô” và “Trung Quốc” (nghĩa là không phải từ gốc), có đôi chút biến báo vì lý do phiên dịch hoặc vì theo cách hiểu của Việt Nam, vừa có nhiều cái sai so với những điều Mác viết ra, vừa đã tự chứng minh là sai trong thực tiễn Việt Nam 42 năm nay.  
Sự thật là CNML được các lãnh tụ của phong trào cộng sản (Stalin, khoảng năm 1927, một số nhân vật khác…) chắt lọc chủ yếu từ Tuyên ngôn Cộng sản, rồi dựng lên thành một chủ nghĩa, một học thuyết nhằm xác lập vai trò độc tôn lãnh đạo cách mạng (trước hết lúc đó là của Liên Xô) và sự tồn tại của ĐCS với tính cách là một đảng độc tôn như thế, và để chi phối mọi tư duy và hành động của toàn xã hội theo quan điểm của ĐCS. Nội dung cốt lõi là xóa bỏ tư hữu tư liệu sản xuất, thiết lập chuyên chính vô sản, coi đấu tranh giai cấp là động lực của phát triển.  
Ngoài ý nghĩa là một cẩm nang của cách mạng xã hội chủ nghĩa, CNML như vậy có thể được xem như sự khẳng định vai trò lãnh đạo tư duy của LX (và phần nào cả tôn sùng cá nhân Stalin, sau này Khru-sốp đã bác bỏ, nhưng ở ta lại phê phán Khru-sốp là xét lại) trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. 
Mác viết Tuyên ngôn Cộng sản năm 30 tuổi (1848), và hầu như đây là tác phẩm duy nhất Mác đề cập đến chủ nghĩa cộng sản một cách đầy đủ nhất với tính cách là một hình thái xã hội mới tất yếu sau chủ nghĩa tư bản. Song trong toàn bộ cuộc đời còn lại sau đó, Mác hầu như bỏ không theo cách tiếp cận như vậy nữa, mà đi sâu vào bản chất sự vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản đương thời. Dù không kiên định, song đã có lúc Mác thừa nhận không thể làm thầy bói cho lịch sử như các dự báo của mình, cho rằng lịch sử chỉ chấp nhận may đo, chứ không thể ốp may sẵn (Việt Phương). Mác đã hoàn thành “Tư  bản” tập I, sau đó Ăngghen từ những phần việc dở dang của Mác hoàn thành tiếp “Tư bản” II và III, trong đó hầu như không nói tới chủ nghĩa cộng sản nữa. Đáng chú ý là: sau này Mác, song rõ nhất là Ăngghen nhân dịp 25 năm TNCS,  đều coi TNCS chỉ có giá trị lịch sử, cuộc sống hoàn toàn không diễn ra như đã viết trong TNCS. Một số quan điểm quan trọng khác của Marx về đấu tranh giai cấp, về quy luật bóc lột giá trị thặng dư, về quy luật tiến hóa của lịch sử… cũng cho thấy nhiều chỗ không đúng và càng không theo kịp cuộc sống ngày nay… Trong khi đó những phân tích của Marx về chủ nghĩa tư bản cho đến hôm nay vẫn có nhiều giá trị thời sự[1]. 
Một vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan đến vấn đề đang bàn: Từ 6 - 7 thập kỷ nay nhiều công trình nghiên cứu khoa học và nhiều học giả có uy tín trên thế giới đánh giá thống nhất: chế độ của Hítle, Stalin và Mao có 3 đặc điểm giống nhau:
(1) thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước - dù tên gọi của nó là gì,
(2) tẩy não (chỉnh huấn, học tập, cải tạo...) để mọi người phải trung thành với chế độ,
(3) biến con người thành công cụ với đòi hỏi phải phục vụ tuyệt đối chế độ (thông qua hiến pháp, luật pháp, chính sách...).
 Chủ nghĩa xã hội quốc gia của Hítle (Đức quốc xã) muốn dựng lên một đế chế của giống ngưới Aryan thượng đẳng, song hiện thân của nó là chủ nghĩa phát-xít Đức, và nó là thủ phạm số 1 gây ra chiến tranh thế giới II.  
Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô lúc đầu là cái nôi và là thành trì của cách mạng vô sản thế giới, song tha hóa dần hướng về một đế chế trong quan hệ giữa Nga và các  nước trong Liên bang xô viết, cũng như giữa Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu với nhiều rạn nứt, để cuối cùng là tan vỡ.  
Ngay từ lúc quy mô nền kinh tế Trung Quốc còn đứng rất xa ngoài tốp 50 nước đứng đầu thế giới, chủ nghĩa xã hội/chủ nghĩa cộng sản của Mao với quan điểm “gió Đông thổi bạt gió Tây” đã mang màu sắc bá quyền. (Trung Quốc không theo CNML vì chống Liên xô, mà chỉ một thời nêu là “chủ nghĩa Mác”). 
Cả 3 chế độ toàn trị nói trên đều có những thảm sát đẫm máu lịch sử sẽ không thể quên, những tội ác hủy hoại đến tận cùng quyền con người.
 Trong khi đó những khát vọng thể hiện đặc trưng hay thuộc tính của chủ nghĩa xã hội hiện thực hôm nay xuất phát từ những khát vọng xa xưa của loài người, sớm nhất là từ thời Plato và Aristotle thuộc nền văn minh Hy Lạp. Rồi những giá trị này trở thành những quan điểm chính trị rõ rệt ở thế kỷ thứ 16, nổi bật là Thomas More (The Utopia), và ngày nay vẫn là hoài bão của loài người về các giá trị của tự do, hạnh phúc...
Chủ nghĩa xã hội hiện thực – có thể nói như vậy – hôm nay được thấy trước hết ở các nước Bắc Âu, thuộc phong trào dân chủ xã hội – nghĩa là hoàn toàn không phải là sản phẩm của CNML. Tiền thân của phong trào dân chủ xã hội ngày nay là Quốc tế II mà Marx và Engels lúc sinh thời đã phê phán rất quyết liệt, cho là cải lương và thủ tiêu đấu tranh giai cấp. Song sang thế kỷ 21 phong trào dân chủ xã hội trên thế giới cũng đang đi vào thời kỳ thoái trào, xã hội loài người đứng trước nhiều vấn đề mới truyền thống và phi truyền thống, những bất công mới, những đòi hỏi mới trong quá trình toàn cầu hóa ngày nay; đồng thời – như 2 mặt của một đồng xu, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra nhiều thách thức mới…
 Vậy CNML với tính cách là nền tảng lý luận của  những gì được gọi là xã hội chủ nghĩa hay định hướng XHCN được giảng dạy và thực hiện ở nước ta thực chất là gì? Lãnh đạo đảng đang đòi hỏi phải bảo vệ, phải trung thành với CNML nào, nó là những nội dung cụ thể gì? Nó có thể soi sáng con đường nào cho đảng, dẫn đất nước đi tới đâu?.. Mọi câu trả lời tìm được trong cuộc sống đều dẫn tới kết luận: Đó là một tập hợp lý luận đầy khiên cưỡng, duy ý chí và mâu thuẫn, xong lại có nhiệm vụ xác lập và biện minh cho vai trò độc tôn của ĐCS, là nền tảng lý luận, là lá cờ giương lên để gò đất nước vào sự lãnh đạo của đảng, v v.., đồng thời là nguồn gốc và mầm mống của chế độ toàn trị ở nước ta hôm nay. 
Đáng lưu ý là nội dung của CNML về xây dựng CNXH được xác định tập trung trong Tuyên bố Mạc-tư-khoa 1957 của các ĐCS và CN quốc tế đã có nhiều điểm khiên cưỡng trái hẳn với lý luận của Mác[2]. Cho đến nay chưa một lần nào và bất kỳ ở đâu có thể thực hiện được nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội như đã ghi trong tuyên bố Mạc-tư-khoa. Đơn giản vì những điều đã được xác định này không hiện thực, duy ý chí, nên thất bại[3]. Vì lẽ này các nước XHCN Liên Xô – Đông Âu cũ sụp đổ. Cũng vì lẽ này Việt Nam đã phải tiến hành đổi mới 1986, và hiện nay đang bâng khuâng không biết đến hết thế kỷ này sẽ có CNXH hay không?!.  
Bi kịch kép của lý luận Mác là ngoài sự sụp đổ của các nước LXĐÂ cũ, đến nay cũng chưa có một cuộc cách mạng nào thắng lợi đã xảy ra theo lý luận của Mác. Trước khi mất 2 năm, Mác đọc cho con rể mình viết góp ý với đường lối của Đảng công nhân Pháp: cách mạng có thể giành thắng lợi bằng con đường hòa bình, nghĩa là không phải bạo lực, cụ thể là thông qua bầu cử; 1895 Ăngghen cũng góp ý như vậy với Đảng Công nhân Đức, song Lênin không biết những điều này… Sau khi Mác mất, Ăngghen tập hợp tiếp các tác phẩm của Mác và đã có lúc thô thiển hóa những ý tưởng của Mác thành “chủ nghĩa”… (Việt Phương và một số học giả nước ngoài khác). Việt Phương còn dẫn ra những chỗ sai khác của Mác trong kinh tế chính trị học. Đúng là dù vĩ đại đến mấy, con người bao giờ cũng vẫn là nhân vô thập toàn: Mác là một trong những triết gia và nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất – tích cực cũng như tiêu cực – đối với nhân loại trong thế kỷ 20.  
Có một điều cần suy nghĩ: Nếu đồng nhất (1) tư tưởng – lý luận Mác và (2) phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, và (3)chủ nghĩa cộng sản diễn ra dưới dạng các chế độ toàn trị ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa làm một, e rằng sẽ không đúng. Dù tác động qua lại với nhau sâu sắc thế nào, song đây vẫn là 3 thực thể khác nhau. Nên có nghiên cứu khách quan giải đáp thỏa đáng. Với cách đặt vấn đề như vậy, tôi cho rằng:  
·       Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là một cuộc đấu tranh cách mạng, là một phản ứng tất yếu và rất đáng trân trọng của nhân loại trước thực tế phát triển đẫm máu và mồ hôi người lao động trong chủ nghĩa tư bản cho đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, chính phong trào đấu tranh cách mạng này đã góp phần quan trọng làm nên những tiến bộ xã hội của nhân loại trong thế giới hôm nay.
·       CNTB nói chung hay là các nước tư bản – cũng có lúc với những đối tượng nào đó ngôn ngữ ta gọi là các nước đế quốc – một phần do đòi hỏi tự thân, một phần do tác động của các trào lưu tiến bộ, trong đó có phong trào cộng sản và công nhân quốc tế - đã có rất nhiều điều chỉnh, nhất là kể từ sau chiến tranh thế giới II đến nay, trên thực tế đã và đang dẫn đầu thế giới trong thực hiện một số giá trị quan trọng.
·       Chủ nghĩa cộng sản như đã xuất hiện ở tất cả các nước XHCN thuở ban đầu là kim chỉ nam của phát triển, và sau đó một mặt do duy tâm và duy ý chí, mặt khác do tha hóa, dần dần biến thành chế độ toàn trị. Nhìn chung, đó chính là sự diễn biến của một quá trình tha hóa.
·       Khi quyền lực của chế độ toàn trị là tuyệt đối với nhiều tội ác đẫm máu, CNML ở tất cả các nước XHCN chỉ còn lại là cái tên (cái bình phong) tuyệt đối, đã dẫn tới sự sụp đổ ở các nước LXĐA, và hiện vẫn đang tiếp diễn ở các nước gọi là XHCN còn lại.
·       Chủ nghĩa cộng sản của phong trào cánh tả bắt đầu từ thời Mao-ít rộ lên một thời ở một số nước đang phát triển song cũng tàn lụi rất nhanh, để lại dĩ vãng đau buồn ở những nơi nó xuất hiện. Phong trào này không có mối liên quan nào đó với CNML với nghĩa đang được hiểu.
·       CNML lúc đầu được hiểu và vận dụng như một học thuyết cách mạng dẫn dắt sự phát triển của nước ta – dưới dạng xây dựng chủ nghĩa xã hội, rất tả khuynh, song dần dần bị quyền lực biến tướng thành ý thức hệ bảo vệ chế độ toàn trị. Quyền lực càng được củng cố bao nhiêu thì CNML càng bị tước bỏ về nội dung bấy nhiêu. Hôm nay chỉ còn lại chức năng là cái mộc và cái khiên của chế độ toàn trị.
·       Tất cả những thứ nêu trên  đều không phải là hiện thân của lý luận Mác.
·       Vân… vân…
 Nhân kỷ niêm 100 năm Tuyên ngôn Cộng sản, hội thảo quốc tế ở Paris đánh giá: Trong toàn bộ tác phẩm của Mác, kể cả trong các thư riêng, đỉnh cao của tư tưởng Mác thể hiện trong quan điểm được nói ra rành rọt, nguyên văn là “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi người!” -  một lần duy nhất được viết ra trong Tuyên Ngôn Cộng Sản. Nhưng tư tưởng này không hề được thực hiện trong bất kỳ một nhà nước cộng sản nào cho đến nay, thậm chí bị vứt bỏ hoàn toàn! (Xem bản ghi của Việt Phương). 
Hơn nữa, trên đời này ngoài kinh thánh được các tín đồ của mình phong tặng sự vĩnh cửu, không có lý luận khoa học nào là vạn năng, bất di bất dịch và trường tồn – trong lĩnh vực khoa học xã hội càng không, vì con người luôn luôn hướng về sự giải phóng chính mình; mọi thứ “chủ nghĩa” đều phải áp đặt tư duy của chính nó. Chỉ có các giá trị mà con người xây dựng nên được trong quá trình phát triển của chính mình là trường tồn. Song các giá trị này cũng phải thường xuyên phát triển theo sự vận động của thời gian, thời đại… 
Đến đây có thể kết luận:
-       CNML như đang được hiểu và vận dụng ở nước ta là tam sao thất bản (từ Liên xô, Trung Quốc), lại được tuyên giáo ta qua các thời kỳ “chế biến thêm” và “chốt lại”... Một thứ CNML như thế hầu như chỉ còn lại là một bình phong, một nhãn mác, hay là một căn cứ mơ hồ, chỉ để mang lại cái chính danh cho “định hướng xã hội chủ nghĩa” mà Đảng muốn ốp cho đất nước.
-       CNML như hiện nay ở nước ta chỉ còn làm được chức năng trang trí tư tưởng, một thứ bùa hộ mệnh, một kiểu ngọn cờ… để biện minh cho vai trò độc tôn và quyền lực của ĐCSVN hôm nay trong xã hội Việt Nam. Nói trung thành với CNML dịch ra đúng nghĩa là áp đặt sự thừa nhận trạng thái hoàn toàn bế tắc về lý luận của một đảng chính trị, và tính hư vô của lý tưởng mà đảng theo đuổi. 
Tất cả chỉ với mục đích duy nhất: củng cố quyền lực của Đảng, loại bỏ phản kháng, trấn áp bất đồng.  
Trong cuộc sống thực của đất nước ta hôm nay, ngoại trừ một số quan điểm sai lầm như chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp, tập trung dân chủ.., rất khó tìm được bất kể một quyết định, hay hành động hoặc một kết quả thực tiễn nào của ĐCSVN hôm nay mang nội dung CNML như đã được xác định trong Tuyên bố Mạc-tư-khoa 1957 nói trên, hoặc theo chính các giáo lý giảng dạy. Đơn giản vì những thứ này đều không khả thi. Song lại ngụy biện là vận dụng sáng tạo vào nước ta! Thực tế này giải thích hiện tượng: Xây dựng CNXH ở nước ta do thất bại, nên từ vài thập kỷ nay buộc phải hạ thấp xuống thành “định hướng XHCN”. Tuy thế đến bây giờ vẫn không xác định rõ được ĐHXHCN là cái gì. Đơn giản vì “định hướng” như thế không có thực. Tất cả những gì tốt đẹp định làm và cố tìm cách gói ghém chúng vào khái niệm ĐHXHCN ở nước ta – ví dụ như công bằng, dân chủ, văn minh, phúc lợi xã hội, chống bóc lột, trách nhiệm của nhà nước… - trên thực tế chỉ là những bánh vẽ, hoặc giả có điểm nào cố sức làm (ví dụ trong y tế, trong giáo dục, trong thực hiện qua loa một số quyền tự do dân chủ nào đó…) kết quả nếu đạt được thường ở mức độ rất thấp và kém rất xa tất cả các nước cùng ở mức thu nhập trung bình (thấp) như nước ta, kém hẳn các nước phát triển.   
Sự thật là nước ta hiện nay bị xếp vào nhóm “top” các quốc gia có chế độ chính trị mất tự do dân chủ, vi phạm nhân quyền và bất công nhất trên thế giới. Cho nên càng bàn mãi về ĐHXHCN càng bí. Vì vậy tuyên giáo của Đảng đã “chốt” lại hộ để khỏi phân vân mãi chưa ra: Cốt lõi của “định hướng XHCN” là bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững kinh tế nhà nước là chủ đạo! Song oái oăm thay chính cái được “chốt” lại này lại là nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản thân hữu và tư bản hoang dã đạt tới đỉnh cao ở nước ta 10 năm qua, bây giờ Đảng phải kêu gọi chống. Trong khi đó Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII lại quy kết mầm mống của chủ nghĩa tư bản thân hữu ở nước ta là kinh tế tư nhân!   Phi lý đến thế là cùng. Song chính cái “chốt” lại này khiến nước ta xin mãi hàng chục năm nay sự công nhận là “kinh tế thị trường” mà vẫn không được!  
Cuộc sống luôn luôn đòi hỏi giải phóng tư duy khỏi sự kìm kẹp của ý thức hệ, để mở mang trí tuệ phấn đấu cho những giá trị đã được văn minh của nhân loại xác lập./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét