Đà
gia tăng dân số toàn cầu trong những năm gần đây đang đi dần đến mức
báo động. Nhiều quốc gia đã chứng minh sự cố gắng trong vấn đề kiểm soát
và hạn chế sinh sản gắt gao như Trung Cộng và Ấn Độ. Tuy nhiên, Ấn Độ
và đa số các quốc gia vùng Phi châu, Á châu không thể kiểm soát được vấn
đề trên, do đó mức gia tăng nhân khẩu đã đạt đến mức báo động. Hiện
tại, dân số trên thế giới đã vượt qua con số 7 tỷ. Việc dân số gia tăng
kéo thêm một số nhu cầu và vấn đề khẩn thiết mới cho con người như thực
phẩm, y tế, giáo dục, phát triển và môi sinh... các nhu cầu và vấn đề
trên có liên quan hỗ tương chặt chẽ với nhau như việc phát triển để gia
tăng lương thực có thể tạo ra những di hại về ô nhiễm ảnh hưởng đến môi
trường sống.
Do
đó, không thể có cái nhìn riêng rẽ và độc lập trong việc áp dụng khoa
học - kỹ thuật để phát triển mà không lưu ý đến những mối liên quan đến
yếu tố ảnh hưởng lên con người. Arpad Goncez, tổng thống Hung Gia Lợi đã
phát biểu trong buổi khai mạc hội nghị "Khoa học cho thế kỷ thứ 21: Một kết ước mới" (Science for the 21st century: A new commitment) tại Budapest rằng: Chỉ có một khoa học, một hành tinh Địa cầu và một "Giống Người" (Humankind)...
Đó
là mẫu số chung của mọi quốc gia sống trên hành tinh nầy. Hội nghị đã
quy tụ trên 150 quốc gia trên thế giới với mục đích kêu gọi toàn cầu có
cùng một hướng nhìn về tương lai về các liên quan giữa phát triển khoa
học-xã hội-môi sinh.
Neal
Lane, cố vấn khoa học của tổng thống Clinton đã gọi các khoa học gia là
Công dân toàn cầu (Global citizen). Mọi động tác nào của con người,
quốc gia, hay từng vùng trên thế giới đều thay đổi ít hay nhiều đến chu
kỳ sinh-địa-hóa học của hệ sinh thái thiên nhiên. Sự xáo trộn nầy sẽ gây
tác hại trực tiếp hay gián tiếp lên con người ở khắp nơi trên thế giới.
Một thí dụ cụ thể là thủy ngân và arsenic, hai hóa chất cần thiết cho
việc tách vàng ròng từ các quặng mỏ đã hiện diện trong lòng đất và các
mạch nước ngầm trong tất cả các vùng đã khai thác.
1. Tương lai toàn cầu
Vì
vậy, nhà dự phóng phát triển cho tương lai ở bất cứ quốc gia nào cũng
phải có tầm nhìn toàn cầu và đắn đo cân nhắc nguyên nhân-hậu quả cùng
các hệ lụy của từng công nghệ áp dụng. Giải quyết được một vài vấn nạn
cho quốc gia trong ngắn hạn mà tạo ra những tác hại đến hệ sinh thái
trong tương lai không phải là giải pháp thích ứng hay tối ưu cho phát
triển.
Thế
kỷ thứ 21 sẽ mở màn cho một cuộc tập hợp vĩ đại không những chỉ ở cấp
vùng, cấp châu mà cần phải phối hợp mở rộng cho toàn thể địa cầu. Mọi
quốc gia dù đang hay đã phát triển, giàu hay nghèo... đều phải có cùng
một tiếng nói và góp phần vào việc bảo vệ hệ sinh thái toàn cầu. Một sự
tập hợp giữa các nhà khoa học, kỹ thuật trong tinh thần nhân bản, có
cùng mẫu số chung về những vấn nạn ảnh hưởng đến toàn cầu... sẽ là một
bước ngoặt tích cực mới cho thế kỷ nầy.
Như
chúng ta đã biết, tiến bộ khoa học và việc khai triển các công nghệ mới
nhằm đáp ứng nhu cầu hạn chế đà gia tăng dân số cũng như cải thiện và
nâng cao đời sống của người dân ở các nước đang mở mang. Đây cũng là
nguyên nhân phát sinh ra nhiều hậu quả mà ba hệ lụy chính được đan cử ra
sau đây:
- Bầu khí quyển bị ô nhiễm và bị hâm nóng dần;
- Ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt trên mặt đất và các mạch nước ngầm;
- Ô nhiễm lòng đất do chất thải phát xuất từ nhiều nguồn khác nhau...
Trên thực tế, mặc dù đã được chia ra làm ba vấn nạn căn bản kể trên, nhưng tất cả đều có liên quan và đan kết chặt chẽ với nhau.
Mọi
biện pháp phòng vệ, ngăn chận, hay làm chậm lại tiến trình ô nhiễm cần
phải được nghiên cứu kỹ lưỡng yếu tố nguyên nhân-hậu quả của từng vấn
nạn một.
Một
giải pháp cho vấn nạn nầy có thể là nguyên nhân của vấn nạn kia... Một
thí dụ cụ thể là tại Hoa Kỳ, các khoa học gia đã đồng ý cho thêm vào
trong xăng chất trợ oxy MTBE (Methyl tert-Butyl Ether) vào thập niên
1980 nhằm mục đích làm giảm thiểu lượng khí thải hồi vào không khí khi
sử dụng xăng để làm chậm lại tiến trình hâm nóng bầu khí quyển trên toàn
cầu. Nhưng sau hai năm áp dụng, lượng thán khí thải hồi tuy có giảm
bớt, nhưng ngược lại chất MTBE, nhân tố gây ra bệnh ung thư cho con
người lần lần xâm nhập vào lòng đất và đã có chỉ dấu về sự hiện diện của
hóa chất nầy trong mạch nước ngầm.
Do
đó, EPA, cơ quan bảo vệ môi trường của Hoa Kỳ đã phải đình chỉ việc
dùng hóa chất trên và thay vào bằng một chất trợ oxy khác là Ethanol
(chất rượu làm từ bắp có thể uống được). Một dấu hỏi được mở ra đây là
việc gì sẽ xảy ra trong tương lai sau khi áp dụng phương pháp trên nhiều
năm sau đó? Hiện tại sau trên 20 năm áp dụng, vẫn chưa có một báo cáo
nói lên sự nguy hại trên và Ethanol vẫn được pha vào trong xăng với liều
lượng là 10%. (Riêng tại Ba Tây, số xe chạy bằng "xăng" Ethanol (100%)
đã chiếm một tỷ lệ gần 50%).
2. Hiện tượng hâm nóng toàn cầu
Với
hàng triệu động cơ vận hành mỗi ngày, hàng triệu máy cắt cỏ, máy thổi
lá chuyển vận, nhiều triệu lon/chai của đủ loại nước ngọt, bia tiêu
dùng..., thán khí (CO2) thênh thang đi vào bầu khí quyển cùng với thân
nhiệt và thán khí thoát ra từ buồng phổi của trên 7 tỷ con người. Và
thêm nữa, các quy trình công nghệ sản xuất chế biến, việc sử dụng lò
sưởi trong mùa đông, cùng các công nghệ khai thác quặng, khí v.v... đã
đóng góp không nhỏ vào lượng thán khí trong không khí.
Hiện tượng hâm nóng toàn cầu khởi sinh từ các nguyên nhân kể trên.
Các
khoa học gia đã ước tính rằng nếu không có biện pháp làm giảm thiểu
lượng thán khí thải hồi thì lượng khí trên sẽ tăng gấp đôi trong vòng 50
năm tới nếu giữ cùng một nhịp độ phát triển như hiện nay.
Trong
thiên nhiên cây xanh là nguồn trợ lực chính hấp thụ thán khí, nhưng với
đà phá rừng ở Phi châu, Á châu, Nam Mỹ, e rằng con số ước tính trên sẽ
bị thâu ngắn lại. Hàng năm, loài người đã thải ra độ 40 tỷ tấn thán khí
(ước tính năm 2010) và số lượng nầy đã được cây cỏ hấp thụ độ 50%.
Nhưng
số lượng trên ngày càng tăng dần với đà phát triển. Thống kê ghi nhận
rằng từ năm 1902 đến 1990 nhiệt độ bầu khí quyển tăng lên khoảng 1oC;
nhưng trong khoảng thời gian chỉ có 3 năm, từ 1995 đến 1998, nhiệt độ
tăng lên đến mức độ báo động là 0,25oC.
Chuyện gì sẽ xảy ra khi nhiệt độ trong bầu khí quyển tăng lên?
Trước
hết, khối lượng băng hà ở Bắc cực và Nam cực sẽ tan dần và lần lần thu
hẹp diện tích đất sinh hoạt của loài người. Trên các đại dương, chỉ cần
nhiệt độ tăng thêm 1,5oC thì hầu hết các vùng sinh thái của san hô và
phiêu sinh vật sẽ bị hủy diệt, làm cạn kiệt nguồn lương thực biển vì tôm
cá không còn nơi trú ngụ, sinh sản (nhiệt độ trung bình ở các vùng biển
nhiệt đới là 30,5oC). Hai hiện tượng trên đang xảy ra trên trái đất của
chúng ta với vận tốc đáng ngại!
Có nhiều biện pháp để ngăn chận và giảm thiểu việc tăng trưởng lượng thán khí trên toàn cầu:
Hạn
chế và kiểm soát lượng thán khí thải hồi trong kỹ nghệ qua khuyến cáo
Kyoto năm 1997 do hầu hết các quốc gia trên thế giới soạn thảo và đồng
ý, cũng như kết ước năm 2015, COP21 (Conference of Parties) của 192 quốc
gia tại Paris, cũng như nhắc lại các kết ước trên ở COP23 tại Bonn, Đức
Quốc từ ngày 6/11/2017.
Hoặc
thanh lọc lượng khí thải hồi bằng phương pháp tách rời và cô lập hóa
học (sequestration technology). Thán khí cô lập được bơm vào dưới lòng
biển sâu và nước biển sẽ hấp thụ khối lượng trên. Hoặc thán khí được bơm
vào các vùng quặng mỏ than đá từ đó than sẽ phản ứng với thán khí để
hình thành khí methane.
Cả
hai phương pháp nầy đã đi dần đến hoàn chỉnh và có thể được đem ra áp
dụng trong vài năm nữa. Tuy nhiên biện pháp dùng thiên nhiên để hấp thụ
thán khí vẫn là phương pháp tối ưu nhất.
Thay
vì phá rừng để phục vụ cho nhu cầu kỹ nghệ, cần phải tái tạo rừng và
trồng thêm rừng mới để tăng thêm diện tích cây cỏ hầu ngăn chận hay làm
chậm tiến trình hâm nóng toàn cầu.
Và sau hết, con người cần phải tự nguyện hạn chế việc sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu bừa bãi.
Nếu làm được các việc trên hy vọng chúng ta có thể giải quyết được vấn nạn sinh tử của nhân loại nói trên.
3. Vài suy nghĩ cho toàn cầu
Như
đã nói ở các phần trên, vấn nạn ảnh hưởng đến môi sinh trên toàn thế
giới trong thời gian tới cùng với những biện pháp phòng ngừa và hạn chế ô
nhiễm đều có tính cách liên đới ảnh hưởng lên mọi quốc gia. Xu hướng
toàn cầu hóa trong lãnh vực nầy sẽ không có biệt lệ nào khác.
Tuy
nhiên, sự phân bố không đồng đều về mặt phát triển kỹ thuật, trình độ
dân trí, điều kiện kinh tế-chính trị của đa số các quốc gia đang phát
triển không cho phép họ có tầm dự phóng xa hơn những vấn đề sống còn
trước mắt. Do đó, các nước hậu kỹ nghệ cần phải thông cảm và có thật tâm
giúp đỡ về nhân sự, tài chánh và kỹ thuật... để các nước đang phát
triển có điều kiện theo kịp đà tiến hóa và cùng góp tay chia sẻ việc bảo
vệ môi sinh để cùng tồn tại.
Giai đoạn thực dân bóc lột, vét đoạt tài nguyên của những nước nghèo sẽ không còn thấy trong thế kỷ thứ 21 nầy nữa.
Trong
chiều hướng suy nghĩ đó, vài đề nghị gợi ý sau đây nói lên những bước
cần nên làm đối với các nước hậu kỹ nghệ và những nước đang phát triển.
Trước
hết, biện pháp làm giảm thiểu hay hạn chế sự hâm nóng toàn cầu là ưu
tiên hàng đầu cho mọi quốc gia, đặc biệt đối với các quốc gia hậu kỹ
nghệ. Ngân sách quốc gia cần được tăng cường trong nghiên cứu và cần
kiểm soát chặt chẽ hơn nữa các cơ xưởng công nghệ. Hạn chế hay nghiêm
cấm các cơ sở sản xuất tạo ảnh hưởng tác hại đến lớp ozone trên bầu khí
quyển. Điều cần phải làm trước nhất là "giáo dục" người dân ở những nước
giảm bớt phung phí trong việc sử dụng năng lượng, tài nguyên thiên
nhiên và chấm dứt việc phí phạm nguồn nước sinh hoạt. Chỉ trong một ngày
vận động cho việc làm sạch bầu khí quyển bằng cách yêu cầu dân chúng sử
dụng xe đạp hoặc đi bộ, hay dùng xe công cộng... thủ đô của Colombia đã
giảm 27% lượng thán khí thải hồi so với mức sinh hoạt bình thường hàng
ngày.
Định
mức tiêu chuẩn tối thiểu mà cơ thể con người có thể chấp nhận được đối
với các hóa chất, kim loại độc hại... trong không khí và trong nguồn
nước cần phải được soạn thảo trên bình diện toàn cầu và phải có sự đồng
thuận của tất cả. Một khi đã chấp thuận một định mức nào đó, mọi quốc
gia đều phải chấp hành nghiêm chỉnh. Một thí dụ cụ thể cho tiêu chuẩn
chấp nhận được của sự hiện diện của arsenic trong nước uống hiện tại là:
10ug/L cho Hoa Kỳ, 15 ug/L ở Pháp và 10 ug/L đối với tiêu chuẩn Liên
hiệp Quốc, và nhiều nơi trên thế giới vẫn còn giữ định mức là 50ug/L
nước. Từ những khác biệt trên có thể nảy sinh ra sự so bì và lơ là của
các quốc gia trong việc bảo vệ môi sinh chung.
Các
phát minh khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cần được thật thà trao đổi
với các quốc gia đang phát triển. Trợ giúp các nước nầy trong việc trao
đổi thông tin kỹ thuật, đào tạo kỹ thuật viên và khai triển các quy
trình công nghệ có hiệu quả cao và an toàn cho môi sinh. Mọi phát minh
mới cần được thông báo cho toàn thể thế giới để tránh sự thụt lùi và
thâu ngắn cách biệt giữa các quốc gia giàu-nghèo.
Đối
với những phát minh hoàn chỉnh, cần phải tiến hành nhanh giai đoạn thử
nghiệm (prototype) và áp dụng tùy theo yếu tố xã hội - kinh tế - môi
sinh cho từng vùng hay quốc gia. Làm được như thế sản phẩm vật chất sẽ
được sản xuất nhiều hơn và chuyển tải đến những nơi có nhu cầu sớm hơn
nhất là đối với các nước ở Phi châu, Á châu và Nam Mỹ.
Về
nguồn nước, các nước hậu kỹ nghệ cần hạn chế hoặc thay thế việc sử dụng
hóa chất trong các quy trình sản xuất hiện có và trong tương lai thay
thế bằng những nguyên liệu có trong thiên nhiên để hạn chế hay giảm
thiểu mức độc hại trong các phó sản thải hồi. Với chiều hướng nầy, nhiều
nhà khoa học trên thế giới đã thành công trong việc áp dụng vào sản
xuất và thanh lọc phế thải. Duckweed (một loại bèo) dùng để hấp thụ
lượng nitrate trong nguồn nước đang được sử dụng rộng rãi; cây bạch
dương (poplar) hấp thụ một số phế thải hữu cơ. Việc thay thế nguyên liệu
hóa chất bằng các hợp chất thiên nhiên như dùng carbohydrate (sản phẩm
có trong tiến trình chế biến phân gia súc) để thay thế hydrocarbon để
chế tạo các loại plastic (như plastic tổng hợp từ bột bắp để bọc các
loại sausage có thể tự hoại (auto-degradation) được trong thiên nhiên.
Các việc làm trên cần được khích lệ và phát triển thêm bằng cách đẩy
mạnh tài trợ cho nghiên cứu.
Giáo
dục là ưu tiên hàng đầu để mọi người có thể đến gần nhau và cùng nói
chung một ngôn ngữ trong lãnh vực khoa học kỹ thuật. Do đó các quốc gia
đang mở mang cần đầy mạnh việc phát triển giáo dục ở cấp trung học
chuyên nghiệp và đại học để tiếp nhận và trao đổi các công nghệ mới dễ
dàng hơn. Chính phủ, các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu và tư
nhân cùng hợp tác trong nghiên cứu và kiến thức cùng dựa trên tinh thần
trao đổi chân chính. Việc nâng cao dân trí người dân ở những nước đang
phát triển trong việc bảo vệ môi trường sống chung quanh cần phải có sự
hỗ trợ của cộng đồng các nước hậu kỹ nghệ qua IMF, WB... để bảo trợ tài
chánh-nhân sự- kỹ thuật cùng thúc đẩy tiến trình cải cách.
Thông
tin tin học, một khám phá tuyệt vời vào thập niên sau cùng của thế kỷ
20 cũng cần được đem ra áp dụng rộng rãi cho các nước chậm phát triển.
Thế giới cần trợ giúp cho các nước trên thiết lập mạng lưới thông tin
khoa học tân tiến nầy, tối thiểu ở trong môi trường đại học, nghiên
cứu... để các sinh viên, nghiên cứu viên có điều kiện học hỏi, thu nhập
những kiến thức mới để rồi áp dụng vào điều kiện cụ thể cho từng quốc
gia một.
Dựa
trên tiêu chuẩn toàn cầu, khi đã đồng ý ngưng hay cấm sản xuất một sản
phẩm nào có khả năng tác hại lên con người như các loại thuốc sát trùng,
các quốc gia hậu kỹ nghệ cần phải chấm dứt việc sản xuất và chuyển tải
qua các nước đang phát triển vì nhu cầu lợi nhuận. (Câu chuyện sử dụng
thuốc sát trùng Round up (glycosate) hiện đang là một tranh cãi ray rức ở
Liên hiệp Âu Châu là nên cấm hay tiếp tục cho dùng dù khoa học đã chứng
minh là hóa chất nây gây ra ung thư cho con người). Việc làm nầy cần
phải chấm dứt và thế giới cần phải quy định biện pháp chế tài cho quốc
gia vi phạm. Sẽ không còn công dân hạng nhì trong thế kỷ 21 nầy! (Hóa
chất DDT đã bị LHQ cấm sử dụng và sản xuất từ năm 1973, nhưng TC vẫn
tiếp tục sản xuất và Việt Nam vẫn nhập cảng và hóa chất nầy là sản phẩm
nền tảng cho hầu hết các loại hóa chất hỗn hợp dưới danh nghĩa hóa chất
bảo vệ thực vật).
Sau
hết, việc xuất cảng mọi phế thải kỹ nghệ dưới bất cứ hình thức nào cần
phải chấm dứt. Đây là một hành động vô nhân đạo không thể tồn tại được
cho thế kỷ 21, thế kỷ của hòa bình và môi trường xanh. Lãnh đạo của các
nước đang phát triển cũng đừng vì nhu cầu ngoại tệ nặng cho quốc gia mà
chấp nhận những loại phế thải độc hại trên. Các thế hệ sau đó sẽ không
bao giờ tha thứ cho các hành động nầy.
4. Trường hợp Việt Nam
Từ
giữa thập niên 80, chính sách kinh tế "Mở cửa" và "Đổi mới" tiếp ngay
sau đó, đã khai mào cho một chu kỳ tăng trưởng mới cho toàn quốc, đặc
biệt ở thành phố Sài Gòn và các vùng lân cận trong đó hầu hết các khu
công kỹ nghệ đều tập trung vào và chiếm hơn 40% tổng sản lượng quốc gia.
Tuy nhiên, có những mặt tiêu cực sau đây:
Nhiều
dịch vụ phát triển quá nhanh chóng và không được điều nghiên kỹ lưỡng
như việc thiết lập các trung tâm giải trí, khách sạn, sân golf... chỉ để
phục vụ cho người giàu và người ngoại quốc tạo thêm ranh giới cách biệt
giữa tuyệt đại đa số quần chúng;
Một
số tư bản mới (đỏ) đã hình thành, từ đó phát xuất ra nhiều mâu thuẫn và
hệ lụy tiêu cực trong hệ thống quyền lực - kinh tế - chính trị.
Chính
hai mặt tiêu cực nầy đã là một trong nhiều nguyên nhân tạo nên khủng
hoảng xã hội gần đây nhất và làm giảm dần mức tăng trưởng kinh tế từ 10%
ở những năm đầu xuống đến 4% năm 1999, và sau đó không tăng trưởng được
như dự tính, mặc dù Việt Nam vẫn còn quá nhiều nhu cầu sinh hoạt căn
bản cần phải cung cấp cho người dân.
Việc
tăng trưởng kinh tế - kỹ nghệ quá nhanh so với tốc độ trước khi có
chính sách đổi mới, nhưng không đủ nhanh so với nhu cầu của quốc gia,
tạo nên những biến động ảnh hưởng lên môi trường ở những vùng được phát
triển mạnh.Tại các nơi trên, bầu không khí ngày càng ô nhiễm thêm. Thán
khí cùng với nhiều kim loại độc hại như chì, thủy ngân và một số hợp
chất hữu cơ nhẹ đã được ghi nhận. Nguồn nước bị ô nhiễm nặng đặc biệt ở
các vùng tiếp nhận trực tiếp nguồn nước thải từ các nhà máy và hệ thống
cống rãnh.
Nhìn
chung tình trạng môi sinh ở Việt Nam đã đến mức báo động, nhất là ở các
thành phố lớn mặc dù mức độ khai triển kỹ nghệ chưa phát triển tương
xứng với nhu cầu của dân chúng toàn quốc mà chỉ tập trung vào một số
thành phố lớn mà không lưu tâm hay quy hoạch đồng bộ tùy theo điều kiện
của từng địa phương. Hiện nay vẫn còn khoảng 50% dân chúng tập trung ở
các vùng nông nghiệp đang còn trong thời sơ khai của thời đại phát triển
kỹ nghệ.
Nguyên
nhân của việc trì trệ phát triển cho những năm gần đây cũng như hiện
trạng ô nhiễm ở Việt Nam có thể được tóm tắt vào những ghi nhận sau đây:
Ảnh
hưởng của sự sụp đổ của hệ thống Cộng sản ở Nga xô và Đông Âu đầu thập
niên 90 cùng với sự khủng hoảng kinh tế vùng Đông Á ở những năm gần đây
(sau năm 1997…) làm cho quốc tế ngần ngại đầu tư vào Việt Nam;
Hệ
thống tiền tệ chưa hoán chuyển được và thị trường chứng khoán cùng các
luật định ngân hàng phức tạp và hay thay đổi thường xuyên, không bảo đảm
tối thiểu cho công cuộc giao thương với bên ngoài;
Hệ
thống ngân hàng không hữu hiệu, không thể hiện nhiệm vụ đúng đắn trong
dịch vụ trao đổi và không có tính xuyên suốt trong báo cáo. Thống đốc
ngân hàng Việt Nam mới đây đã nhận định rằng nhiệm vụ của ngân hàng là
đáp ứng cho nhu cầu của quốc gia và dân chúng chứ không thi hành theo
chỉ thị hoặc mệnh lệnh!
Mặc
dù có sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Á
châu (ADB), Quỷ tiền tệ thế giới (IMF), Chương trình phát triển Liên
hiệp quốc (UNDP)... về tài chánh và kỹ thuật cho việc nâng cấp và giải
quyết các vấn nạn môi sinh ở Việt Nam do sự phát triển kỹ nghệ và nạn
gia tăng dân số, nhưng hầu hết các hạng mục công trình trên còn nằm bất
động trên hình thức các dự án khả thi. Mức độ thi công tiến hành quá
chậm do thủ tục hành chánh rườm rà và bất nhất cũng như các tệ nạn quan
liêu khiến cho đôi khi dự án phải bị bỏ dở nửa chừng;
Việc
phá hoại các rừng ven biển và dẫn nước mặn vào sâu trong đất liền để
khai thác dịch vụ nuôi tôm là một trong những nguyên nhân cho sự nhiễm
mặn. Ngay cả việc nuôi tôm, sau một vài mùa có thu hoạch cao, dịch vụ
nầy lần lần đi vào phá sản vì tôm con bị chết quá nhiều vì hệ sinh thái
thay đổi và môi trường sinh sống của tôm không còn đồng nhất như vùng
nước mặn nguyên thủy. Ảnh chụp từ vệ tinh năm 1999 cho thấy khoảng
150.000 hecta ở ven biển Cà Mau, Bạc Liêu đã bị bỏ hoang trên gần
200.000 hecta đã khai thác trong khoảng năm năm gần đây! Từ xa xưa, các
rừng tràm, đước, vẹt... đã phát triển vững mạnh trong vùng lầy, thiết
lập một hệ sinh thái thiên nhiên vừa cân bằng và cầm chân nước mặn tiến
sâu vào đất liền, vừa là môi trường sống thích hợp cho tôm cá; do đó tôm
không thể phát triển được vì sự mất cân bằng trên.
Trong
những năm sau này, lãnh đạo Việt Nam có khuynh hướng cứng rắn hơn trong
việc điều hành quốc gia. Đường lối và chính sách hiện tại thể hiện sự
bất an, bối rối trong quyết định trước những vấn nạn sinh tử cho đất
nước. Nhưng việc đốt rừng tràm, rừng đước để chiếm đất nuôi tôm cá ven
biển vẫn là một vấn nạn lờn hiện tại.
Có
nhiều thành phần tham gia vào việc phát triển kinh tế - kỹ thuật ở Việt
Nam. Đó là quân đội, công an, chính quyền, tư nhân, và ngoại quốc. Một
khi đã nắm chặt quyền lực trong tay, cộng thêm với sức mạnh kinh tế, các
thành phần có quyền lực trên có khả năng tạo ra nạn kiêu binh có thể
gây xáo trộn xã hội mà lãnh đạo sẽ khó kiểm soát được. Điều nầy sẽ làm
mất niềm tin và giảm thiểu mức đầu tư của dân chúng và nhất là đầu tư
quốc tế.
Đối
với các nhu cầu phát triển, điều tiên quyết là phải có sự bàn thảo và
đồng thuận giữa chính quyền và các công ty tư nhân. Cho đến nay, mọi hợp
tác giữa chính quyền - tư nhân - ngoại quốc chưa được đặt trên căn bản
công bằng và đồng thuận do đó vẫn còn nhiều cản ngại trong việc giao
thương quốc tế. Còn có nhiều thiên vị cho các đối tác có liên quan đến
chính quyền. Công ty quốc doanh chiếm đa số vẫn còn được tài trợ và ưu
đãi mặc dù làm ăn thua lỗ. Việc kiểm soát môi sinh còn quá lỏng lẻo đưa
đến việc lơ là trong bảo quản và thanh lọc phế thải.
Một
số dự án có tầm vóc quốc gia, đối tác được chọn chưa thu thập đầy đủ dữ
kiện nghiên cứu tác hại môi trường, nhân sự chuyên nghiệp không đáp ứng
được nhu cầu của công trình, do đó nhiều dự án phải bị bỏ dở nửa chừng.
Các
công ty tư vấn ngoại quốc được Việt Nam mời đến để khai triển một số dự
án kỹ thuật và tính khả thi trong từng điều kiện hiện có. Đôi khi, Việt
Nam dùng tư cách chủ nhà để chỉ đạo dự án hay sửa đổi không đúng với
quy cách kỹ thuật làm cho dự án khó được hoàn chỉnh. Và cũng có nhiều
công ty ngoại quốc vì muốn được trúng thầu mà thiết lập dự án khả thi
khi chưa hoàn tất hồ sơ điều tra cơ bản. Điều nầy làm cho phát triển
Việt Nam trì trệ về thời gian, tài lực, và nhân lực, chưa kể đến việc
làm mất niềm tin của người dân về thực tâm của những người có trách
nhiệm!
Nhận
diện được một số nguyên nhân căn bản đưa đến sự kiện chậm phát triển
cho Việt Nam những năm gần đây, chỉ cần một ít động não, việc truy tìm
giải đáp cho bài toán trên cũng không khó vậy.
5. Thay lời kết
Trở
về đất nước thân yêu của tất cả chúng ta, Việt Nam hiện tại là một dân
tộc non trẻ, thông minh, chăm chỉ, hiếu học, cần cù, và có tinh thần cầu
tiến. Trên 90% dân số đều biết đọc biết viết. Con số nầy quá cao so với
các nước đang phát triển và có điều kiện xã hội tương tự như của chúng
ta, nhưng ngược lại lợi tức đầu người vẫn còn thấp kém so với các quốc
gia trong vùng.
Tại sao có sự nghịch lý kể trên?
Dĩ
nhiên là phải có cái gì bất ổn cho đất nước. Đương nhiên nhà cầm quyền
hoàn toàn trách nhiệm về tình trạng ngày càng đi xuống hiện nay. Trên 42
năm sống trong hòa bình, thiết nghĩ cũng đủ dài để thiết lập một xã hội
ổn định cho Việt Nam.
Nhưng tiếc thay điều đó không xảy ra.
Theo
bảng xếp hạng của UNDP, trong vòng 11 năm, từ năm 1991 đến 2002, chỉ số
phát triển người (HDI) của Việt Nam từ mức dưới trung bình (0,498 năm
1991) tăng lên mức trung bình (0,688 năm 2002). Thứ bậc HDI của Việt Nam
xếp thứ 109/173, còn GDP bình quân đầu người xếp thứ 128/173. Vào năm
2015, HDI giảm còn 0,666, xếp hạng 116/143 chứng tỏ rằng phát triển của
Việt Nam giảm so với 13 năm trước đó, nghĩa là Việt Nam không đi đúng
hướng trong việc phát triển quốc gia. Vì không đi đúng hướng cho nên
hiện tại, 2017 đã có gần 300.000 kỹ sư tốt nghiệp vẫn không có việc làm
thích hợp với kỹ năng của mình!
Hiện
tại, trong nhiều lãnh vực kinh tế-kỹ thuật-khoa học-môi sinh, thế giới
đang biến thành một quốc gia lớn, một trật tự mới đang hình thành. Trong
bối cảnh đó, càng ngày càng thấy rõ ràng là mọi người đều có trách
nhiệm. Những gì xảy ra tại Tây Tạng, Vân Nam đều trực tiếp ảnh hưởng đến
đồng bằng sông Cửu Long.
Rốt ráo hơn nữa, mọi người Việt đều có trách nhiệm về tình trạng thụt lùi của Việt Nam.
Càng thiết tha, càng gắn bó với quê cha đất tổ càng thấy mình có trách nhiệm.
Trách nhiệm là nhận thức thực tiễn, và trên căn bản đó có những thái độ và hành động tích cực hơn cho đất nước.
Nói lên tiếng nói, tạo một âm vang, khuếch đại một xu hướng, tạo dựng sức ép, mỗi người mỗi cách, không sao kể xiết.
Nhìn
lại đất nước, với hơn 65% lực lượng lao động thuộc thành phần trẻ tuổi,
chúng ta đã có một trợ lực lớn có khả năng đưa đất nước lên cao. Tuổi
trẻ Việt Nam, sau một giai đoạn ngắn tiếp cận với phong cách hành xử và
giao thương quốc tế đã hiểu thêm và hiểu cặn kẽ về tự do-dân chủ. Từ đó
tinh thần quốc gia dân tộc tăng trưởng nhanh chóng trong thành phần nầy.
Tuổi trẻ Việt Nam mong muốn có một đời sống kinh tế - tinh thần - tâm linh tương xứng với các đóng góp của chính mình.
Những
rào cản ngăn cách trong tôn giáo - địa phương không còn là một chướng
ngại để rồi cùng ngồi lại với nhau, không như các thế hệ cha ông trước
kia.
Những
cảm xúc trong tư tưởng, vết hằn trong quá khứ sau cuộc qua phân của đất
nước phải nhường bước cho lối nhìn tích cực về triển vọng tương lai của
quê hương.
Do đó, các mỹ từ vì thế hệ mai sau, vì chủ nghĩa anh hùng... không còn là một xúc tác tốt để hấp dẫn tuổi trẻ Việt Nam nữa.
Tuổi
trẻ Việt Nam trân trọng bốn ngàn năm văn hiến của tiền nhân, nhưng tuổi
trẻ hôm nay không vì niềm tự hào đó mà dừng chân lại để chiêm ngưỡng
quá khứ.
Đừng
cho đó là một cản ngại lớn cho sự bền vững của chế độ mà nên cùng nhau
thay đổi đường lối và chính sách thích hợp với xu hướng toàn cầu. Cùng
tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường làm việc thích ứng với tính năng
động và hiếu học của tuổi trẻ.
Có
như thế, cơ hội phát triển và triển vọng tương lai đồng đều cùng đời
sống kinh tế-tinh thần có hy vọng được nâng cao sẽ là hai động cơ chính
thức thúc đẩy tuổi trẻ mạnh bước tiến lên.
Cũng
xin dừng rập khuôn tin tưởng vào văn hóa "coca cola" của Hoa Kỳ để mong
được phát triển nhanh và đổi lấy một xã hội bất ổn về tinh thần và tạo
ra xã hội băng hoại!
Tuổi trẻ Việt Nam đang lên đường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét